Nửa đầu năm 2019 bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước có không ít bất định…nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn có nhiều điểm sáng.
Nhận định được Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) và Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform) đưa ra.
Tăng trưởng “thấp thỏm”
Báo cáo của CIEM chỉ rõ, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,71% trong quý II, giảm so với quý I (6,82%). Tính chung 6 tháng đầu năm, GDP tăng 6,76%, thấp hơn mức tăng của nửa đầu năm 2018 nhưng cao hơn cùng kỳ giai đoạn 2011-2017. Kết quả này không cách xa mục tiêu tăng trưởng cả năm 2019 (6,8%). Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tương đối cao so với các nước trong khu vực.
Quý II là quý thứ 8 liên tiếp GDP vượt mức tiềm năng, và là quý thứ 9 liên tiếp tăng trưởng GDP vượt mức tiềm năng. Dù vậy, tăng trưởng GDP tiềm năng vẫn giữ xu hướng giảm. Điều này ít nhiều phản ánh lo ngại về chất lượng tăng trưởng chưa được củng cố - đặc biệt khi Việt Nam lưu tâm hơn đến ứng phó với tác động bất lợi từ môi trường kinh tế bên ngoài.
Về phát triển công nghiệp, chỉ số phát triển toàn ngành tiếp tục tăng trưởng, đạt 9,7% trong Quý II và 9,5% trong 6 tháng đầu năm. Các phân ngành đều tăng trưởng khá: phân ngành chế biến chế tạo tăng 10,7%; sản xuất và phân phối điện tăng 10,4%...
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) quý II tăng lần lượt 0,31% và 0,49% trong tháng 4 và 5 trước khi giảm nhẹ 0,09% trong tháng 6. Bình quân CPI quý II và 6 tháng đầu năm lần lượt tăng 2,65% và 2,64%. “Nhìn chung, mặt bằng lạm phát trong quý II thấp hơn đáng kể so với cùng kỳ các năm 2017-2018”, báo cáo nhận định.
Lạm phát cơ bản bình quân 6 tháng đầu năm tăng 1,87% so với bình quân cùng kỳ năm trước. Nhìn chung, điều hành chính sách tiền tệ chưa gây áp lực lên mặt bằng giá. Tuy nhiên, việc lạm phát cơ bản bình quân trong 3 tháng đầu năm và 6 tháng đầu năm đều cao hơn hẳn so với các năm 2017-2018 đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ một cách thận trọng.
Về xuất khẩu, chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa tiếp tục xu hướng giảm (lần lượt giảm 0,27% và 0,36% trong quý I và II so với quý trước). So với cùng kỳ năm trước, chỉ số giá xuất khẩu quý tăng 1,11% quý II và 2,77% trong 6 tháng đầu năm. Trong khi đó, chỉ số giá xuất nhập khẩu quý II chỉ tăng nhẹ 0,31% so với quý trước và 0,78% so với cùng kỳ năm trước. Dù vậy, áp lực từ giá xuất khẩu lên CPI dường như còn chưa lớn.
Trong quý II, xuất khẩu hàng hóa ước đạt 63,86 tỷ USD, tăng 9,3%. Tính chung 6 tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 122,72 tỷ USD, tăng 7,3%. Mức tăng này thấp hơn nhiều so với cùng kỳ các năm 2017-2018. Dù vậy, xuất khẩu trong Quý II có sự cải thiện đáng kể so với Quý I.
Theo phân tích, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam tăng chậm nguyên nhân do suy giảm thương mại toàn cầu, đặc biệt là trong bối cảnh leo thang căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc; tỷ trọng lớn trong xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực vẫn thuộc về khu vực FDI, trong khi một số tập đoàn FDI lớn có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chậm hơn so với các năm trước; và xuất khẩu nhóm hàng nông, thủy sản gặp nhiều khó khăn cả về giá và các yêu cầu, quy định của một số thị trường nhập khẩu.
Có thể bạn quan tâm
07:00, 13/07/2019
18:20, 01/07/2019
14:00, 01/07/2019
19:16, 22/06/2019
Nhiều yếu tố tác động tới những tháng cuối năm
Dự báo của báo cáo cho thấy, tăng trưởng kinh tế năm 2019 có thể đạt mức 6,82%. Tăng trưởng xuất khẩu cả năm dự báo ở mức 8,02%. Thặng dư thương mại dự báo ở mức 0,8 tỷ USD. Lạm phát bình quân năm 2019 đạt 3,38%.
Tuy nhiên, báo cáo nhìn nhận, diễn biến kinh tế vĩ mô trong 6 tháng cuối năm có thể chịu ảnh hưởng của một số yếu tố. Thứ nhất, rủi ro suy thoái của kinh tế thế giới được đề cập nhiều hơn, dù có thể chưa xảy ra ngay trong 6 tháng cuối năm 2019. Xu hướng thắt chặt tài chính ở Mỹ đã bị thay thế bởi việc phòng ngừa suy thoái kinh tế: FED đã nhanh chóng để ngỏ khả năng hạ lãi suất, dù cuối quý I còn nói về khả năng không tăng lãi suất. Xu hướng nới lỏng chính sách có thể kéo theo giảm giá đồng nội tệ ở nhiều nước.
Thứ hai, căng thẳng thương mại ở khu vực chưa hạ nhiệt. Chiến tranh thương mại – công nghệ giữa Mỹ và Trung Quốc còn diễn biến phức tạp, và không loại trừ sẽ còn một số khúc quanh trong nửa cuối năm. Đối đầu thương mại giữa Nhật và Hàn Quốc thậm chí còn tác động trực tiếp và nhanh hơn đối với Việt Nam.
Thứ ba, dù kỳ vọng nhiều vào việc phê chuẩn EVFTA, Việt Nam cũng cần lưu ý rằng EU đang rất bận với chương trình nghị sự về thương mại (liên quan đến Brexit, đàm phán thương mại với Mỹ).
Thứ tư, hàng xuất khẩu của Việt Nam có thể gặp phải nhiều vụ kiện phòng vệ thương mại, điều tra chống lẩn tránh thuế, gian lận xuất xứ… không chỉ ở thị trường Mỹ.
Thứ năm, sự đối đầu giữa các công nghệ mới và tư duy quản lý truyền thống ngày một phức tạp hơn, ngay cả ở các thị trường phát triển. Vụ việc đồng tiền Libra chính là một ví dụ tiêu biểu gần đây nhất. Điều này có thể khiến Việt Nam thận trọng hơn trong việc tiếp cận các công nghệ mới, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng.
Do đó, 6 tháng cuối năm cần quyết liệt trong điều hành chính sách để đạt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Quốc hội đề ra.
Cụ thể, báo cáo kiến nghị, tiếp tục cụ thể hóa, triển khai các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế tư nhân; cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp; cải cách bảo hiểm xã hội.
Tiếp tục hướng dẫn, tổ chức triển khai hiệu quả các luật căn bản của thể chế kinh tế thị trường như Luật Quản lý nợ công; Luật Đầu tư công (sửa đổi); Luật sửa đổi các Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ; Luật Cạnh tranh (sửa đổi); Luật an ninh mạng, v.v. Nhanh chóng đánh giá tình hình triển khai để mạnh dạn đề xuất những điều chỉnh cần thiết, nếu có.
Nghiên cứu, sửa đổi kịp thời Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư nhằm giải quyết những hạn chế trong thực tế triển khai. Ưu tiên cải cách môi trường kinh doanh theo hướng tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất – kinh doanh phù hợp với Nghị quyết 02/NQ-CP năm 2019…. Đặc biệt, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại các lĩnh vực, trong đó đẩy mạnh phát triển về chất lượng nhằm tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế trước những biến động khó lường của kinh tế và thương mại thế giới....