Cải thiện huy động tiền gửi với hệ thống ngân hàng

Diendandoanhnghiep.vn Để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của nền kinh tế, an toàn thanh khoản của hệ thống ngân hàng, các NHTM cần tiếp tục cải thiện tình hình huy động tiền gửi trên cơ sở đảm bảo sự cân đối hợp lý.

>>Áp lực thanh khoản đè nặng ngân hàng

Trong bối cảnh áp lực thanh khoản đang đè nặng ngành ngân hàng, các ngân hàng thương mại phải tích cực xử lý nợ xấu, thu hồi tiền để gia tăng nguồn lực tài chính. Cùng với đó, hoạt động huy động tiền gửi cũng còn những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu để cải thiện nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu sử dụng vốn và an toàn thanh khoản.

Một số ngân hàng chưa có bộ phận quan hệ khách hàng về lĩnh vực huy động tiền gửi, vì vậy, mối quan hệ với khách hàng về lĩnh vực huy động tiền gửi còn khá bị động

Một số ngân hàng chưa có bộ phận quan hệ khách hàng về lĩnh vực huy động tiền gửi, vì vậy, mối quan hệ với khách hàng về lĩnh vực huy động tiền gửi còn khá bị động

Thách thức huy động vốn

Cụ thể, về cơ cấu tiền gửi, mặc dù thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn đảm bảo, nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trước đó, giai đoạn 2020 - 2021, tăng trưởng huy động vốn chủ yếu là tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp (tiền gửi không kì hạn), tiền gửi dân cư tăng rất chậm và chỉ chiếm khoảng một nửa lượng vốn huy động của các ngân hàng.

Tiền gửi doanh nghiệp tuy tăng nhanh, song có thể bị rút ra bất kỳ lúc nào để đưa vào sản xuất, kinh doanh. Điều này đồng nghĩa nguồn vốn của NHTM thiếu bền vững, gây khó khăn cho ngân hàng trong quản trị cân đối kỳ hạn nguồn vốn và sử dụng vốn. Đây là những thách thức không nhỏ đối với các ngân hàng có tỉ lệ CASA cao trong việc tuân thủ quy định Tỉ lệ vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn.

Tỷ trọng vốn trung và dài hạn quá thấp trong tổng nguồn vốn huy động là một trong những nguyên nhân khiến nhiều ngân hàng không thể đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, do các doanh nghiệp này chủ yếu vay vốn trung và dài hạn để đầu từ mở rộng sản xuất kinh doanh, hoặc đối với một số ngân hàng lớn, tình trạng này cũng khiến họ gặp khó khăn cho việc tài trợ các dự án mang tầm cỡ quốc gia.

Về các sản phẩm huy động vốn và chất lượng cung ứng dịch vụ, thực tế huy động tiền gửi dân cư của các NHTM Việt Nam thời gian qua cho thấy, các sản phẩm truyền thống vẫn là chủ yếu, sản phẩm mới còn ít nên chưa có sức hấp dẫn, thu hút nhiều khách hàng cá nhân sử dụng dịch vụ này, mặc dù độ rủi ro được đánh giá thấp hơn nhiều so với các kênh đầu tư khác.

Đặc biệt, với các sản phẩm huy động tiền gửi online, nhiều khách hàng, nhất là khách hàng lớn tuổi hoặc còn hạn chế trình độ công nghệ thông tin, chưa nắm được cách thức đăng ký và sử dụng dịch vụ, nhưng chưa được ngân hàng hỗ trợ kịp thời. Tính chuyên nghiệp, thái độ và sự nhiệt tình của nhân viên ngân hàng đôi khi chưa làm hài lòng khách hàng.

Một số ngân hàng chưa có bộ phận quan hệ khách hàng về lĩnh vực huy động tiền gửi, vì vậy, mối quan hệ với khách hàng về lĩnh vực huy động tiền gửi còn khá bị động, chủ yếu chờ khách hàng đến đăng ký dịch vụ gửi tiền. Khách hàng chưa thấy sự gắn kết, sự quan tâm đúng mức của ngân hàng, họ còn bị động và lúng túng trong việc lựa chọn sản phẩm gửi tiền phù hợp, thông tin được ngân hàng cung cấp còn khá chung chung.

Riêng vấn đề công nghệ ngân hàng và kiểm soát rủi ro, các ngân hàng nhỏ chưa đạt được kỳ vọng của khách hàng; chất lượng mạng, tốc độ đường truyền, lỗi kỹ thuật hoặc thiết bị đầu cuối không đảm bảo; hệ thống ngân hàng điện tử phát triển độc lập, chưa có sự liên kết chặt chẽ và bền vững; việc sử dụng chữ ký điện tử, chứng nhận điện tử chưa được phổ biến rộng rãi và chưa thể hiện được ưu thế so với chữ ký thông thường.

Thực tế trên khiến việc huy động tiền gửi của NHTM từ số dư tài khoản của khách hàng bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó, quy trình kiểm soát rủi ro liên quan đến hoạt động nhận, gửi tiền tại cá biệt một vài ngân hàng chưa tuân thủ đúng quy định và đã xảy ra những vụ việc liên quan đến tiền gửi của khách hàng.

Mặt khác, sự phát triển quá nhanh về quy mô cung cấp dịch vụ với một số lượng lớn các sản phẩm khác nhau về tính chất, số lượng giao dịch, độ phức tạp khác nhau, nên hiện tượng gian lận, sai sót cũng đã xảy ra tại một vài ngân hàng.

Trong bối cảnh ngân hàng nước ngoài mở rộng hoạt động tại thị trường Việt Nam theo lộ trình thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế của Việt Nam, mức độ cạnh tranh trên thị trường sẽ ngày càng gay gắt. Nếu các NHTM Việt Nam không tăng cường kiểm soát nội bộ, tăng cường nâng cấp, đầu tư công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao mô huy động vốn, nâng cao chất lượng dịch vụ để tạo niềm tin cho khách hàng thì nguy cơ bị giảm sút thị phần là điều khó tránh khỏi.

>> Nới hạn mức tín dụng cho ngân hàng: Đa dạng lãi suất, kiểm soát rủi ro

Khuyến nghị giải pháp

Với các ngân hàng thương mại Việt Nam xuất phát từ quan điểm phát triển kinh tế giai đoạn 2021 – 2030, kỳ họp Quốc hội khóa XIII đã đặt ra các mục tiêu nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn và an toàn thanh khoản của hệ thống ngân hàng.

Trong bối cảnh số lượng khách hàng ngày càng nhiều, số lượng sản phẩm, dịch vụ ngày càng tăng, sự hỗ trợ của công nghệ sẽ góp phần không nhỏ vào sự phát triển của hệ thống ngân hàng

Trong bối cảnh số lượng khách hàng ngày càng nhiều, số lượng sản phẩm, dịch vụ ngày càng tăng, sự hỗ trợ của công nghệ sẽ góp phần không nhỏ vào sự phát triển của hệ thống ngân hàng

Có thể thấy, gửi tiết kiệm luôn được đánh giá là kênh đầu tư mang lại lợi ích và an toàn cao hơn cho người dân khi có tiền nhàn rỗi. Bên cạnh nhóm khách hàng gửi tiền với nhu cầu sinh lời, hiện nay dịch vụ tiền gửi còn được coi là một hình thức làm chủ tài chính hiện đại của nhiều người trẻ, với mong muốn tích lũy cho kế hoạch lâu dài.

Vì vậy, để thực hiện định hướng huy động tiền gửi nêu trên, mỗi ngân hàng có thể triển khai chiến lược huy động vốn bằng các phương thức, giải pháp cụ thể phù hợp với điều kiện của mình. Sau đây là một số định hướng giải pháp cơ bản:

Một là, tăng cường công tác nghiên cứu nhu cầu gửi tiền để thu hút khách hàng và cung cấp những sản phẩm đáp ứng tốt hơn kỳ vọng của khách hàng Thực tế những năm qua, một số ngân hàng như Techcombank, MBBank, Tiên Phong Bank,... có lượng khách hàng thường xuyên tăng nhanh, đều là những ngân hàng có nguồn vốn huy động dồi dào và giảm được chi phí vốn trong dài hạn.

Hiện nay, tỉ lệ dân cư Việt Nam có tài khoản tại ngân hàng khoảng 31%, thấp hơn các nước trong khu vực (Singapore 98%, Malaysia 85%, Thái Lan 82%, Indonesia 49%, Philippines 34%). Đây là điều kiện tốt để các NHTM tiếp tục thu hút khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng.

Để phát triển nền khách hàng, các ngân hàng cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện chính sách khách hàng, chủ động tiếp cận các nhóm khách hàng có nhu cầu gửi tiền khác nhau, xây dựng văn hóa công sở văn minh, nâng cao chất lượng nhân lực, chất lượng dịch vụ khách hàng. Ngăn ngừa sự sụt giảm bất thường của vốn tiền gửi trên cơ sở đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu rút tiền trong mọi tình huống, ngăn chặn phao tin đồn nhảm, có phương án đáp ứng nhu cầu thanh khoản kịp thời khi có sự cố xảy ra.

Ngân hàng cần đa dạng hơn nữa các kỳ hạn tiền gửi, có thể theo tuần, tháng... để khách hàng yên tâm, sẵn sàng gửi tiền vào ngân hàng nếu chưa có nhu cầu sử dụng, từ đó giúp ngân hàng tiếp cận được nhiều đối tượng khách hàng hơn, tăng khả năng huy động tiền gửi của ngân hàng.

Hai là, xây dựng mức lãi suất, phí phù hợp với từng sản phẩm, từng nhóm khách hàng (cá nhân, doanh nghiệp) và biến động lãi suất của thị trường vốn. Đa dạng hóa phương thức trả lãi đi đôi với dự thưởng để thu hút khách hàng. Khi xây dựng bảng phí dịch vụ và lãi suất cho từng loại hình huy động tiền gửi, ngân hàng cần tính toán sao cho mức phí bù đắp được các chi phí, đạt mục tiêu lợi nhuận, đảm bảo sức cạnh tranh không chỉ giữa các ngân hàng mà còn đảm bảo tính liên thông với các thị trường vốn khác, như thị trường trái phiếu doanh nghiệp chẳng hạn.

Thực tế cho thấy, từ năm 2016, Techcombank là ngân hàng đầu tiên thực hiện chương trình e-banking 0 đồng (miễn phí toàn bộ các giao dịch qua kênh điện tử) cho khách hàng cá nhân và từ đó đến nay ngân hàng này vẫn đang tiếp tục mở rộng chương trình này cho các phân khúc khách hàng khác. Nhờ chính sách e-banking 0 đồng, đến năm 2021 TCB là ngân hàng có tỉ lệ CASA cao nhất hệ thống (đạt 50,5%).

Gần đây, các ngân hàng lớn như Vietcombank, BIDV, VietinBank cũng đã chính thức miễn phí dịch vụ trên các ứng dụng ngân hàng số như phí duy trì tài khoản, phí chuyển tiền nội, ngoại mạng. Tuy nhiên, nếu khi tất cả các ngân hàng đều miễn phí giao dịch e-banking thì chính sách này sẽ không còn tác dụng thu hút khách hàng và tăng tỉ lệ CASA như trường hợp TCB. Vì vậy, mỗi ngân hàng cần có những giải pháp riêng, trong đó nghiên cứu cải tiến sản phẩm, công nghệ để gia tăng tiện ích cho khách hàng khi mở tài khoản tại ngân hàng là một hướng đi thiết thực.

Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa huy động tiền gửi với hiện đại hóa dịch vụ ngân hàng và phát triển hệ sinh thái số. Trong bối cảnh số lượng khách hàng ngày càng nhiều, số lượng sản phẩm, dịch vụ ngày càng tăng, sự hỗ trợ của công nghệ sẽ góp phần không nhỏ vào sự phát triển của hệ thống, giúp người quản lý và nhân viên ngân hàng được giải phóng khỏi những công việc tỉ mỉ, máy móc để đầu tư thời gian cho công việc chăm sóc và tìm kiếm khách hàng mới.  

Do vậy, để nâng cao khả năng huy động tiền gửi, ngân hàng cần tập trung nguồn lực triển khai các giải pháp đột phá trên kênh ngân hàng số (định danh điện tử - eKYC, chuyển tiền và thanh toán đa kênh bù trừ điện tử - ACH, huy động tiền gửi online...); Nâng cấp hệ thống core banking, cơ sở hạ tầng đường truyền, tăng cường an ninh công nghệ thông tin, tăng tính bảo mật thông tin khách hàng; Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ hệ thống IPCAS (hệ thống thanh toán nội bộ và kế toán ngân hàng), đảm bảo hệ thống được kết nối thông suốt, không bị nghẽn mạng, tạo thuận lợi trong quá trình giao dịch; Tăng cường công tác quản trị mạng, quản trị hệ thống để sớm phát hiện và có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm, các tội phạm công nghệ cao; Phát triển hệ sinh thái số - môi trường thanh toán điện tử bằng cách tăng cường liên kết với các nhà cung cấp bán lẻ như điện, nước, truyền hình, internet, viễn thông, học phí, viện phí, nộp thuế, vé xem phim và hàng loạt các dịch vụ khác.

Bốn là, thiết lập môi trường kiểm soát nội bộ phù hợp. Môi trường kiểm soát nội bộ đóng vai trò quan trọng trong hoạt động ngân hàng nói chung và huy động tiền gửi nói riêng. Tùy theo điều kiện và chiến lược phát triển, mỗi ngân hàng cần xây dựng một môi trường kiểm soát nội bộ phù hợp giúp cho công tác quản trị điều hành và giám sát hệ thống; cung cấp các thông tin liên quan  để khoanh vùng trọng điểm các giao dịch có dấu hiệu gian lận, hoặc tác nghiệp sai, giúp phát hiện sớm dấu hiệu rủi ro, chấn chỉnh nhanh chóng, hiệu quả nhưng tiết kiệm tối đa lao động và chi phí; thực hiện tốt các chức năng hỗ trợ đánh giá tổng thể hoạt động, đánh giá mức độ hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch của từng chi nhánh, của toàn hệ thống (tỉ lệ tăng/giảm huy động tiền gửi, cơ cấu và sự biến động số dư tiền gửi, tỉ lệ vốn ngắn hạn dùng cho vay trung dài hạn, tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu, mức độ hoàn thành các chỉ tiêu hội sở giao cho chi nhánh...).

Với Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước nước cần tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp cho nhà đầu tư, để thị trường tài chính phát triển an toàn, hiệu quả, bền vững.

Với người dân, nhà đầu tư cá nhân, gửi tiền tiết kiệm tại NHTM, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, hay lựa chọn các cơ hội đầu tư khác là quyền của nhà đầu tư. Để hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra, bên nỗ lực của các cơ quan quản lý nhà nước, người dân - nhà đầu tư cá nhân cũng  cần có các biện pháp tự bảo vệ mình bằng cách không ngừng học hỏi nâng cao kiến thức, tìm hiểu kĩ càng về doanh nghiệp phát hành trái phiếu, ngân hàng huy động tiền gửi, đặc biệt là việc công bố thông tin của các tổ chức trên các trang thông tin chính thức để lựa chọn sản phẩm đầu tư, thời điểm đầu tư phù hợp với năng lực tài chính và khả năng chịu đựng rủi ro của mình.

Để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của nền kinh tế, an toàn thanh khoản của hệ thống ngân hàng, các NHTM cần tiếp tục nghiên cứu cải thiện tình hình huy động tiền gửi trên cơ sở đảm bảo sự cân đối hợp lý giữa huy động tiền gửi dân cư với huy động tiền gửi doanh nghiệp, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng các nguồn vốn có tính ổn định cao, phát triển đa dạng sản phẩm và kênh phân phối, xây dựng biểu phí và lãi suất cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và tăng cường kiểm soát rủi ro. 

Đánh giá của bạn:

Mời các bạn tham gia vào group Diễn đàn Doanh nghiệp để thảo luận và cập nhật tin tức.

Bạn đang đọc bài viết Cải thiện huy động tiền gửi với hệ thống ngân hàng tại chuyên mục DIỄN ĐÀN TÀI CHÍNH của Tạp chí Diễn đàn doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác: email toasoan@dddn.com.vn, hotline: 0985698786,
Bình luận
Bạn còn /500 ký tự
Xếp theo: Thời gian | Số người thích
SELECT id,type,category_id,title,description,alias,image,related_layout,publish_day FROM cms_post WHERE `status` = 1 AND publish_day <= 1711630508 AND in_feed = 1 AND top_home <> 1 AND status = 1 AND publish_day <= 1711630508 ORDER BY publish_day DESC, id DESC LIMIT 0,11
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10