Đại hội lần thứ XIII của Đảng đặt ra nhiệm vụ mới về phát triển nhanh, bền vững, đó là dựa chủ yêu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
>>Lan toả Bộ chỉ số CSI trong cộng đồng doanh nghiệp
TS. Nguyễn Hồng Sơn, Vụ phó Vụ Địa phương I, Văn phòng Trung ương Đảng nhấn mạnh tại Hội thảo: “Phát huy tiềm năng, nguồn lực, phát triển kinh tế nhanh, bền vững”, ngày 16/5.
Theo TS. Nguyễn Hồng Sơn, trước những yêu cầu của thực tiễn khách quan, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã bổ sung nhận thức, đưa ra định hướng mới trong quan điểm với Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội trong 10 năm từ năm 2021 – 2030.
Cụ thể, cải cách nâng cao chất lượng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước. Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực sản xuất, nhất là đất đai. Hệ thống pháp luật phải thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh tế mới.
Phải coi trọng hơn quản lý phát triển xã hội, mở rộng dân chủ phải gắn với giữ vững kỷ luật kỷ cương. Phát triển nhanh, hài hoà các khu vực kinh tế và các loại hình doanh nghiệp, phát triển kinh tế tư nhân thực sự là một động lực của nền kinh tế.
Vẫn theo TS. Nguyễn Hồng Sơn, xuất phát từ nhận thức sâu sắc, toàn diện về phát triển nhanh, bền vững, có sự kế thừa từ nhận thức và xu hướng phát triển chung của các nước trên thế giới, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Trong điều kiện của nước ta như hiện nay, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững cũng có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại với nhau. Trong đó, phát triển kinh tế-xã hội bền vững là điều kiện để phát triển kinh tế-xã hội nhanh. Ngược lại, phát triển nhanh là cơ sở, nguồn lực cho phát triển bền vững.
“Do đó, phát triển nhanh và bền vững phải được thực hiện đồng bộ, luôn gắn chặt với nhau trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội”, TS. Nguyễn Hồng Sơn nhấn mạnh.
Để đổi mới và hoàn thiện chế độ sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, TSKH. Võ Đại Lược, Trung tâm Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương đề xuất một số giải pháp sau.
>>Lan tỏa Chỉ số CSI trong ASEAN
>>CSI là công cụ hỗ trợ quản trị doanh nghiệp bền vững
Thứ nhất, phải thúc đẩy, khuyến khích hoạt động sáng tạo ở Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực để có thể tạo ra một dung lượng tri thức mới, các bằng phát minh sáng chế, thương hiệu… Đây chính là tài sản quốc gia đáng giá nhất cần phải được bảo vệ. Nếu Việt Nam không có những tài sản này thì Việt Nam chỉ có thể bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của người nước ngoài.
Thứ hai, phải hoàn thiện hệ thống thể chế gồm cả các luật lệ liên quan đến sở hữu trí tuệ, không chỉ những luật lệ bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ mà cả những luật lệ phát huy trí sáng tạo của người Việt Nam theo hướng hiện đại, nhất là các chế tài ngăn chặn các hành vi vi phạm, hoàn thiện hệ thống tổ chức liên quan đến việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, kể cả hệ thống tổ chức nghiên cứu sáng tạo.
Thứ ba, tăng cường các hoạt động dịch vụ thông tin truyền thông phổ biến các tri thức liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, cần đưa vấn đề quyền sở hữu trí tuệ vào nội dung giảng dạy ở các trường đại học.
Thứ tư, mở rộng sự hợp tác với các tổ chức nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm, đào tạo cán bộ, hoàn thiện hệ thống pháp lý của Việt Nam theo hướng tiên tiến và hiện đại.
Thứ năm, thúc đẩy việc nhập khẩu các bằng phát minh sáng chế, cải tiến ứng dụng và thương mại hoá. Đây là một hoạt động quan trọng vì các bằng phát minh sáng chế của Việt Nam hiện còn hạn chế. Đây cũng là cách làm phổ biến của các nước đi sau.
Thứ sáu, đổi mới chính sách bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, lực lượng sáng tạo quan trọng của đất nước theo hướng các bằng phát minh sáng chế phải được thương mại hoá, những nhà sáng chế phải được hưởng thù lao xứng đáng, sáng chế của họ phải được bảo vệ, họ phải được tôn vinh.
Trong bài tham luận trình bày tại hội thảo, lãnh đạo VCCI nhấn mạnh hơn 10 năm qua VCCI đã có những đóng góp quan trọng trong việc kiến nghị xây dựng chính sách cho doanh nghiệp phát triển bền vững. VCCI đóng vai trò thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam thay đổi tư duy kinh doanh, theo đuổi và thực thi chiến lược kinh doanh bền vững.
VCCI cũng tiên phong trong việc thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong cộng đồng doanh nghiệp từ sớm. Tiêu biểu là sáng kiến hỗ trợ doanh nghiệp triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam từ năm 2018. Trong đó, đã giới thiệu đến cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam những hướng dẫn để chuyển dịch từ mô hình kinh tế truyền thống sang kinh tế tuần hoàn theo tiêu chuẩn quốc tế. Nhiều dự án, sáng kiến về kinh tế tuần hoàn cũng đang được VCCI phối hợp với các doanh nghiệp thành viên triển khai mạnh mẽ.
VCCI cũng đã tích cực phối hợp với nhiều bộ, ngành để luôn đồng hành cùng doanh nghiệp, không chỉ tạo ra những diễn đàn trao đổi, đối thoại giữa doanh nghiệp và cơ quan hữu quan nhằm tháo gỡ vướng mắc, mà còn đưa ra những chia sẻ, kinh nghiệm về mô hình phát triển bền vững cho các doanh nghiệp học hỏi, tìm hiểu mô hình phù hợp nhất.
VCCI chủ trì xây dựng, phát triển bộ chỉ số doanh nghiệp bền vững (CSI) như một công cụ hỗ trợ doanh nghiệp quản trị doanh nghiệp bền vững, giúp doanh nghiệp có thể nhìn nhận, soi mình vào bộ chỉ số để biết mức độ và hiệu quả về phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Bộ chỉ số CSI được sử dụng làm căn cứ đánh giá, xếp hạng và biểu dương các doanh nghiệp bền vững thông qua chương trình đánh giá, công bố doanh nghiệp bền vững Việt Nam do VCCI phối hợp tổ chức cùng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thường niên từ năm 2016.
Mặc dù những đóng góp của doanh nghiệp vào thực hiện chiến lược phát triển nhanh, bền vững đất nước ngày càng quan trọng. Tuy nhiên, lãnh đạo VCCI đánh giá trên thực tế còn nhiều tồn tại xuất phát từ nội tại doanh nghiệp cần khắc phục.
Thứ nhất, nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức được đầy đủ các mục tiêu phát triển bền vững, cũng như việc thực hiện các báo cáo bền vững của doanh nghiệp. Trên thực tế, mới chỉ có một số doanh nghiệp, tập đoàn lớn thực hiện báo cáo bền vững, còn lại các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn chưa chú trọng việc thực hiện.
Thứ hai, mức độ hiểu biết về môi trường của doanh nghiệp còn hạn chế. Kết quả khảo sát doanh nghiệp của VCCI cho thấy, mặc dù ô nhiễm môi trường ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh song mức độ hiểu biết của doanh nghiệp về các quy định môi trường còn thấp, chỉ có 31,8% doanh nghiệp tư nhân trong nước cho biết họ hiểu rõ các quy định môi trường, dù đến 68% doanh nghiệp cho biết đã bị ảnh hưởng tiêu cực bởi biến đổi khí hậu.
Thứ ba, mức độ tuân thủ quy định môi trường chưa cao dù đang được cải thiện. Các doanh nghiệp hiện nay chủ yếu là DNNVV. Nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức được trách nhiệm với môi trường và cho rằng quy mô quá nhỏ để gây hại cho môi trường.
Nhiều doanh nghiệp không có nhân lực am hiểu về pháp luật môi trường trong khi các duy định môi trường còn phức tạp. Chi phí tuân thủ các quy định môi trường còn cao, không hợp lý khiến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bị giảm trước mắt.
Số liệu khảo sát của VCCI cho thấy, 44% doanh nghiệp trong nước và 38% doanh nghiệp FDI thừa nhận chưa tuân thủ đầy đủ các quy định môi trường. Mức độ tham gia các chương trình bảo vệ môi trường tại địa phương của doanh nghiệp còn hạn chế (37% doanh nghiệp).
Đáng chú ý, mặc dù tới 91% doanh nghiệp cho rằng bảo vệ môi trường là trách nhiệm của chính quyền địa phương, nhưng tỷ lệ doanh nghiệp cho rằng chính họ cũng cần có trách nhiệm lại thấp hơn.
Thứ tư, mức độ đầu tư của doanh nghiệp cho đổi mới, thực hành xanh mới ở mức khởi đầu. Theo báo cáo năm 2021 của UNDP, ngay cả trong lĩnh vực thâm dụng năm lượng như sản xuất, vận tải, xây dựng… cũng chỉ có khoảng 1/2 doanh nghiệp áp dụng các giải pháp tiết kiệm năng lượng và tài nguyên.
Nhằm khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp tích cực sản xuất, kinh doanh phục vụ chiến lược phát triển nhanh, bền vững đất nước, góp phần sớm đưa Việt Nam hoàn thành 17 mục tiêu phát triển bền vững mà Chương trình nghị sự 2030 của Liên hiệp quốc đã thông qua, lãnh đạo VCCI đề nghị trong thời gian tới các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp cần tập trung xử lý có hiệu quả các yêu cầu quan trọng sau.
Về phía nhà nước
Một là, tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật và thực thi pháp luật nói chung và pháp luật về môi trường nói riêng. Thực tế đã cho thấy, việc tăng cường tham vấn doanh nghiệp, người dân trong quá trình xây dựng pháp luật giúp cải thiện chất lượng quy định pháp luật.
Nhiều nghiên cứu quốc tế đã chứng minh rằng, tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp trong xây dựng pháp luật sẽ giúp tăng cường mức độ tuân thủ của doanh nghiệp.
Hai là, tại thuận lợi trong tiếp cận thông tin về chính sách, pháp luật về phát triển bền vững, môi trường. Các cơ quan nhà nước cần nâng cao hiệu quả công tác phổ biến các chính sách, quy định để các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV quy mô siêu nhỏ, nhỏ dễ dàng tiếp cận thông tin hơn. Cần chú trọng truyền thông chính sách trong lĩnh vực này như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Ba là, xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về phát triển nhanh, bền vững, nhất là về tăng trưởng xanh. Khuyến khích, ưu đãi doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ cao, công nghệ sạch. Tiếp tục xây dựng, đa dạng hoá hơn nữa các chính sách để ưu đãi các doanh nghiệp đầu tư theo hướng sử dụng công nghệ cao, công nghệ sạch, ít tiêu hao năng lượng, tài nguyên, phát thải thấp, thân thiện với môi trường. Xây dựng các bộ tiêu chí để sàng lọc, lựa chọn, đánh giá các dự án đầu tư sử dụng công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường.
Bốn là, theo dõi, đánh giá thực thi chính sách về bảo vệ môi trường, phát triển xanh, phát triển bền vững ở cấp địa phương. Bên cạnh hoàn thiện khung khổ chính sách thì thúc đẩy thực thi chính sách cũng hết sức quan trọng.
VCCI đang xây dựng và dự kiến sẽ công bố Chỉ số Xanh cấp tỉnh (PGI) trong thời gian tới. Đây là bộ chỉ số độc lập đánh giá môi trường, thực trạng ứng dụng công nghệ thân thiện môi trường của doanh nghiệp tại địa phương, trình độ quản lý và ứng xử với môi trường của doanh nghiệp, mức độ quan tâm, chính sách khuyến khích hoạt động đầu tư xanh của chính quyền địa phương và nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến môi trường.
Năm là, tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn phục vụ phát triển bền vững, nhất là tăng trưởng xanh cho doanh nghiệp.
Sáu là, tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia với trọng tâm là cải cách về thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, cắt giảm chi phí doanh nghiệp. Tập trung cải cách một số lĩnh vực thủ tục hành chính còn nhiều phiền hà theo phản ánh từ các doanh nghiệp, như đất đai, thuế, bảo hiểm xã hội, phòng cháy, xây dựng, quản lý thị trường, môi trường, kho bạc, lao động…
Về phía doanh nghiệp
Thứ nhất, các doanh nghiệp cần chủ động tiêp cận, tìm hiểu nâng cao hiểu biết về quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước, các nội dung căn bản của chiến lược phát triển nhanh, bền vững đất nước cũng như các mục tiêu phát triển bền vững của Chương trình Nghị sự 2030.
Đặc biệt, cần hiểu và xác định rõ vị trí, vai trò của bản thân doanh nghiệp trong Chiến lược này ở từng gia đoạn, thời kỳ để từ đó có thể hoạch định được chiến lược kinh doanh hài hoà, phù hợp.
Thứ hai, các doanh nghiệp cần nhận thức phát triển bền vững là xu thế tất yếu, liên quan tới sự sinh tồn của chính bản thân doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp không chỉ tìm hiểu, nâng cao kiến thức liên quan mà còn phải có kế hoạch, hành động cụ thể để thích ứng.
Thứ ba, chủ động có hành động, sự đầu tư cụ thể trong các vấn đề bảo vệ môi trường tự nhiên, ứng phó biến đổi khí hậu, giảm thiểu phát thải khí nhà kính, tìm hiểu, mạnh dạn áp dụng các mô hình kinh doanh bền vững, có trách nhiệm vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, như kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh…
Có thể bạn quan tâm
10:00, 23/03/2023
08:41, 09/02/2023