Dự báo đến năm 2020 dân số đô thị nước ta đạt 44 triệu người, nhu cầu cấp nước sinh hoạt đô thị cũng tăng lên 9,4-9,6 triệu m3/ngày.
Theo đó, nhu cầu vốn để xây các nhà máy nước mới, cải thiện hệ thống nước hiện hữu và các nhu cầu khác vào khoảng 3,3 tỷ USD; nguồn vốn để đầu tư thêm các nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt đô thị trong 5 năm tới cần đến 6,9 tỷ USD.
Vốn lớn, thu hồi chậm
Hầu hết các doanh nghiệp ngành nước đang có biên lợi nhuận gộp khá hấp dẫn, ở mức trên dưới 30-40%. Chẳng hạn, Công ty CP Nước và Môi trường Bình Dương (Biwase, mã BWE) công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý II/2019 với doanh thu tăng 2,3% so với cùng kỳ, đạt 641,7 tỷ đồng; lợi nhuận gộp từ bán hàng và cung cấp dịch vụ đạt 243 tỷ đồng, tăng 10%.
Ngoài Biwase, những doanh nghiệp ghi nhận mức tăng trưởng trên 100% về lợi nhuận trong khi doanh thu chỉ ghi nhận dưới 10% trong kỳ vừa qua là: Cấp nước Bến Thành (BTW), Cấp nước Vĩnh Long (VLW), Cấp nước Hà Tĩnh (HTW), Cấp nước Thanh Hóa (THN)...
Tuy nhiên, do đặc thù xuất phát điểm là đơn vị kinh doanh của nhà nước, giới hạn về khu vực và quy mô tài sản, nguồn vốn khá nhỏ, lại chịu sự quản lý chặt về giá... Mặt khác, đầu tư hệ thống nước sạch cho vùng nông thôn rất tốn kém, bởi các hộ gia đình thường ở xa nhau nên đường ống dẫn nước phải kéo dài. Vốn bỏ ra lớn, khả năng thu hồi chậm, lợi nhuận thấp, lại không có chính sách ưu đãi đi kèm.
Có thể bạn quan tâm
19:42, 05/09/2019
01:55, 29/08/2019
07:56, 19/06/2019
06:06, 03/04/2019
03:25, 21/02/2019
Nhà đầu tư sẽ chọn điểm ít rủi ro
Theo như chia sẻ của ông Lê Quốc Bình, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Hạ tầng Kỹ thuật TP HCM (CII), nhà đầu tư gặp rủi ro khi bỏ vốn để phát triển mạng lưới ống nước nhưng không có người sử dụng, còn ở nơi có người dùng rồi mới đưa hệ thống tới thì rủi ro là người sử dụng không từ bỏ hệ thống hiện tại để chuyển sang hệ thống mới.
Còn theo ông Trương Khắc Hoành, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Hạ tầng Nước Sài Gòn (Saigon Water), thống kê sau hơn 2 năm đầu tư các giải pháp cấp nước, tổng số vốn bỏ ra đã hơn 2.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, người sử dụng nước còn hạn chế nên hiệu quả chưa cao. Điều đáng nói là trong số hơn 70.000 đồng hồ nước lắp đặt đến tận nhà dân thì có đến 36.000 đồng hồ không sử dụng nước liên tục trong 6 tháng, chiếm tỷ lệ 51%.
Ngoài ra, rủi ro còn đến với các doanh nghiệp gia nhập ngành nước sạch là tình trạng xâm nhập mặn, vùng nước ô nhiễm, mà các yếu tố này nằm ngoài kiểm soát của các nhà máy nước. Theo ông Vũ Đình Độ, Chủ tịch HĐQT Nhựa Đồng Nai, nếu chọn đặt nhà máy sai vị trí hoặc ham suất đầu tư rẻ để đặt nhà máy gần vùng tiêu thụ mà không tính đến vùng sản xuất công nghiệp gần kề thì rủi ro khó lường, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư.
Do đó, Nhựa Đồng Nai luôn yêu cầu chính quyền sở tại cam kết vùng cấp nước là an toàn mới tiến hành xây dựng nhà máy. Nhựa Đồng Nai cũng đầu tư công nghệ tiên tiến để phòng chống việc tăng độ mặn bất thường của vùng nước.
Còn chiến lược đầu tư của Công ty CP Cơ điện lạnh (REE) là tìm cách mua cổ phần chi phối ở các công ty sản xuất nước sạch đã hoạt động ổn định và đã được quy hoạch vùng nước an toàn. REE cũng tính toán đầu tư vào công ty có mạng lưới hạ tầng nước bán đến từng hộ gia đình để tăng doanh thu và lợi nhuận.