"Kinh tế tư nhân là động lực và rường cột của nền kinh tế nước nhà"
Đó là một trong những kiến nghị của TS. Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam bên thềm Diễn đàn đối thoại về kinh tế tư nhân được tổ chức ngày 2/5, tại Hà Nội
Diễn đàn Doanh nghiệp xin đăng toàn văn các kiến nghị này.
Cộng đồng doanh nghiệp được cổ vũ mạnh mẽ khi chỉ trong vòng chưa đầy hai thập kỷ, Đảng ta đã hai lần ra nghị quyết riêng về phát triển kinh tế tư nhân. Đầu tiên là Nghị quyết 14-NQ/TW Hội nghị Trung ương 5 khóa IX ngày 18/3/2002 và mới đây là Nghị quyết 10-NQ/TW Hội nghị Trung ương 5 Khóa XII ngày 03/6/2017 (sau đây gọi tắt là NQ 10). Nghị quyết 10 gợi nhớ về Nghị quyết 10 về đổi mới quản lý kinh tế trong nông nghiệp (thường gọi là khoán 10) của TW 30 năm về trước – Nghị quyết của nguồn cảm hứng đổi mới và là hòn đá tảng đầu tiên trên con đường cải cách kinh tế ở Việt Nam. Chúng ta hy vọng NQ 10 lần này cũng là nguồn cảm hứng và dấu ấn đột phá như vậy, góp phần thổi bùng lên ngọn lửa khởi nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân. Bởi chúng ta luôn tin rằng, nông nghiệp và khởi nghiệp là từ khóa quan trọng nhất cho sự phát triển của đất nước này. Là người đã gắn bó nhiều năm với sự nghiệp phát triển kinh tế tư nhân những năm qua và có vinh dự tham gia trực tiếp vào quá trình soạn thảo cả 2 NQ về kinh tế tư nhân của Đảng (với tư cách là thành viên Ban Chỉ đạo và Ban Biên tập), tôi có niềm tin mãnh liệt vào sức sống của NQ.
17 năm qua, kể từ khi chúng ta có NQ đầu tiên về kinh tế tư nhân, với những nỗ lực mạnh mẽ trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, khu vực kinh tế tư nhân đã có những bước phát triển vượt bậc. Chúng ta đã có một khu vực tư nhân đông đảo gồm hơn 700 ngàn doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và 5,2 triệu hộ kinh doanh. Đất nước cũng đã có những tỷ phú Việt đầu tiên và nhiều thương hiệu Việt được thế giới công nhận. Mặc dù vậy, chất lượng phát triển của khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn nhiều điều khiến chúng ta không thể không trăn trở. Chúng ta chưa có được một thế hệ các nhà công nghiệp dân tộc, năng suất của khu vực tư nhân nói chung còn thấp, tính phi chính thức cao, nền kinh tế có quá ít các doanh nghiệp cỡ vừa và lớn, khả năng kết nối vào các chuỗi giá trị toàn cầu còn yếu,…
Để tiếp tục thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, chúng tôi xin được kiến nghị một số vấn đề lớn sau đây:
1. Xác định kinh tế tư nhân là động lực và “rường cột” của nền kinh tế nước nhà.
Hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân đang là cỗ máy tạo việc làmlớn nhất trong nền kinh tế, gánh vác trọng trách lịch sử chuyển dịch lực lượng lao động từ khu vực nông nghiệp năng suất thấp sang khu vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ có năng suất lao động cao hơn. Đây là khu vực mưu sinh cho hàng chục triệu gia đình. Đóng góp cho tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân trong nước ngày càng tăng lên, hiện đã đạt tỷ lệ 40% GDP của nền kinh tế và tỷ lệ này đang tiếp tục gia tăng. NQ 10 đã đề ra mục tiêu khu vực kinh tế tư nhân trong nước sẽ đóng góp 50% GDP vào năm 2020, 55% vào năm 2025 và 60-65% vào năm 2030. Đó là những mục tiêu hiện thực. Với triển vọng như vậy, và giả định rằng khu vực FDI sẽ tiếp tục đóng góp tối thiểu 20% GDP trong thời gian tới, thì khu vực kinh tế tư nhân (theo nghĩa rộng, theo thông lệ thế giới) sẽ đóng góp ít nhất 80-85% GDP vào năm 2030. Vì vậy, chúng tôi đề nghị khẳng định vai trò động lực và rường cột của khu vực kinh tế tư nhân- khu vực kinh tế của người dân và các doanh nghiệp dân tộc - trong việc xây dựng một nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập, tự cường và phát triển bền vững ở Việt Nam.
2. Chuyển trọng tâm công tác của Chính phủ từ tháo gỡ khó khăn sang tạo điều kiện thuận lợi và yểm trợ cho doanh nghiệp.
Để phát huy vai trò động lực và rường cột của khu vực kinh tế tư nhân, nhất là khu vực kinh tế tư nhân trong nước, thì điều quan trọng không phải chỉ phát triển khu vực này về số lượng mà phải nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh. Và để làm được điều này, Đảng ta đã xác định 3 mũi đột phá: cải cách thể chế, phát triển kết cấu hạ tầng và đào tạo nguồn nhân lực, trong đó thì cải cách thể thế giữ vai trò nền tảng. Dù đã có nhiều thành tựu, nhưng những nỗ lực cải cách thể chế cho đến nay, vẫn đang loay hoay ở việc cởi trói, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Chúng ta chưa làm được nhiều theo hướng tạo điều kiện thuận lợi và yểm trợ cho khu vực tư nhân phát triển. Môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh của Việt Nam theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới và Diễn đàn Kinh tế Thế giới vẫn ở mức “thường thường bậc trung”, vẫn còn một khoảng cách khá xa so với nhóm 3-4 nền kinh tế hàng đầu ở ASEAN và càng xa so với chuẩn mực của các nền kinh tế phát triển (OECD). Thứ hạng năng lực cạnh tranh thể chế của chúng ta trong những lĩnh vực quan trọng nhất của môi trường kinh doanh như khởi sự doanh nghiệp, nộp thuế và BHXH, giao dịch thương mại qua biên giới, giải thể và phá sản doanh nghiệp đang xếp ở nhóm trung bình thấp của thế giới với thứ hạng trên 100 trong số 190 nền kinh tế được Worldbank xếp hạng. “Thể chế nào thì doanh nhân đó”, vì vậy, tiếp tục bứt phá về cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh theo các NQ 35, NQ 02 của Chính phủ với quyết tâm tất cả các chỉ tiêu phải đạt TOP 50 của thế giới, và điểm số chung phải lọt vào TOP 3, TOP 4 trong ASEAN vẫn phải là những ưu tiên quan trọng nhất cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực kinh tế tư nhân.
3. Luật doanh nghiệp sửa đổi cần có giải pháp đột phá mở đường cho các hộ kinh doanh và các doanh nghiệp nhỏ có thể lớn lên.
10-20-30 là bức tranh tổng thể và khá bất thường của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Doanh nghiệp tư nhân chính thức trong nước chỉ đóng góp chưa tới 10% GDP, 20% thuộc về FDI và 30% GDP là các hộ kinh doanh cá thể - khu vực không chính thức. Các doanh nghiệp Việt đã không thể lớn lên được như kỳ vọng trong suốt tiến trình cải cách những năm qua. Trong số 700 ngàn doanh nghiệp đăng ký chính thức đang hoạt động: Theo tiêu chí của chúng ta, DN lớn chỉ chiếm 0,65%, DN cỡ vừa 5,85% còn lại 93,5% là DN nhỏ và siêu nhỏ. Còn nếu tính theo tiêu chí của Thế giới và nếu tính cả khu vực hộ kinh doanh cá thể thì tỷ lệ DN nhỏ và siêu nhỏ còn lớn hơn nhiều. Do quy mô nhỏ, không có được lợi thế về quy mô, nên chúng ta chưa có được một cộng đồng doanh nghiệp mạnh. Để khắc phục tình trạng này, chúng tôi đề nghị Luật doanh nghiệp sửa đổi sắp tới phải hướng tới mục tiêu tạo lập khung khổ pháp lý vững chắc cho sự phát triển của khu vực hộ kinh doanh cá thể và khuyến khích họ chuyển đổi thành doanh nghiệp; Đồng thời giảm mạnh các thủ tục hành chính và chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ để doanh nghiệp có thể lớn lên.
4. Dùng một luật để sửa nhiều luật về doanh nghiệp và môi trường kinh doanh để khắc phục nhanh những điểm nghẽn về thể chế.
Chúng tôi cũng đề nghị Chính phủ trình Quốc hội theo định kỳ một “luật sửa nhiều luậtvề doanh nghiệp và môi trường kinh doanh” (tương tự như chuỗi các Nghị quyết 19 và NQ 02 của Chính phủ) để khắc phục sớm những điểm nghẽn, bảo đảm sự nhất quán trong khung khổ pháp luật hiện nay về doanh nghiệp và đầu tư kinh doanh. Thực tế, theo phản ánh của các địa phương và doanh nghiệp, hệ thống luật pháp về doanh nghiệp và môi trường kinh doanh như luật đất đai, luật đầu tư, luật về môi trường, luật đầu tư công,… còn có nhiều điểm bất hợp lý, thiếu nhất quán và chồng chéo mà chờ đợi sửa đổi tổng thể các luật này rất khó khăn và cần có thời gian. Vì vậy, ban hành một luật sửa đổi nhiều luật về doanh nghiệp và môi trường kinh doanh là một giải pháp phù hợp sẽ đẩy nhanh việc tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp và các dự án đầu tư.
5. Lắng nghe ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp, trung lập hóa bộ máy làm chính sách.
Mặc dù trong năm 2018, với đề xuất của VCCI, CIEM và các hiệp hội doanh nghiệp cùng sự chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ, sự nỗ lực của các bộ ngành, chúng ta đã đạt được mục tiêu cắt giảm trên 50% điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính kiểm tra chuyên ngành. Nhưng ở đâu đó vẫn còn tình trạng cắt giảm mang tính chất đối phó và chưa thực chất. Vẫn có hiện tượng điều kiện kinh doanh hóa thân vào các quy chuẩn kỹ thuật và khổ nạncấp phép, xin cho vẫn còn nguyên, thậm chí còn nặng nề hơn. Thủ tục và chi phí cho kiểm tra chuyên ngành cho xuất nhập khẩu mà người ta thường gọi nôm na là “thủ tục chào hỏi, qua biên giới”_ các thủ tục ở tuyến đầu của hội nhập, ở nước ta vẫn gấp 2-3 lần so với các nước ASEAN 4 là điều không thể chấp nhận.
Để tạo sự bứt phá trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, đặc biệt là trong cải cách thủ tục hành chính và dẹp bỏ giấy phép con, chúng tôi đề nghị thay cho cách tiếp cận truyền thống là giao cho các bộ, ngành tự rà xét và đưa ra các giải pháp cắt giảm, bằng việc giao cho VCCI chủ trì cùng với CIEM và các hiệp hội doanh nghiệp chủ động rà xét và kiến nghị danh sách các điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính cần tiếp tục đơn giản hóa hoặc loại bỏ để báo cáo trực tiếp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và kiến nghị với các bộ ngành. Trong từng bộ, ngành, đề nghị giao nhiệm vụ đề xuất cắt giảm cho các bộ phận độc lập thay vì các bộ phận đang cấp giấy phép trên cơ sở lắng nghe ý kiến từ cộng đồng doanh nghiệp và tham vấn ý kiến của cơ quan chuyên môn. Vì nhiệm vụ xây dựng thể chế là nhiệm vụ trọng tâm của các bộ/ngành, nên cần bố trí những cán bộ có năng lực nhất vào bộ phận này cùng với chính sách đãi ngộ thỏa đáng với họ.
6. Dùng gương soi năng lực cạnh tranh cấp sở ban ngành, quận huyện (DDCI) để thúc đẩy thực thi.
Tình trạng “trên nóng dưới lạnh”, “trên đã thông, dưới chưa thoáng”, “trên rải thảm, dưới rải đinh”,… vẫn còn. Ở nhiều tỉnh thành phố, rào cản trong thực thi thủ tục hành chính vẫn còn nằm ở cấp sở, ban, ngành, quận, huyện. Muốn duy trì kỷ luật thực thi, phải tăng cường các cơ chế giám sát, phát huy vai trò của người dân và doanh nghiệp, đặc biệt là vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp. Chúng tôi khuyến nghị các tỉnh, thành phố giao cho các hiệp hội DN xây dựng bộ chỉ số năng lực cạnh tranh cấp quận, huyện, sở, ban, ngành (DDCI) để giám sát và tăng cường kỷ luật thực thi của bộ máy điều hành và công chức. Bằng cách này sẽ chuyển được lửa cải cách xuống cơ sở, tạo dựng niềm tin, động lực và áp lực cải cách ở các địa phương.
7.Đối tác công-tư là chìa khóa thành công.
Xã hội hóa dịch vụ công và thực hành đối tác công-tư (PPP) trong mọi lĩnh vực có thể là con đường huy động sức dân cho các mục tiêu phát triển. Đây cũng là một yêu cầu quan trọng trong nội dung cải cách của các bộ ngành và chính quyền các địa phương. Tuy nhiên, theo đánh giá của chúng tôi, so với các nỗ lực cải cách thủ tục hành chính và phi chủ quản hóa các doanh nghiệp nhà nước, thì nhiệm vụ xã hội hóa các dịch vụ công các bộ ngành đang còn triển khai rất chậm trễ. Đề nghị Quốc hội và Chính phủ yêu cầu các bộ ngành và chính quyền các địa phương xây dựng và triển khai quyết liệt chương trình này (theo đúng chủ trương của Đảng: việc gì người dân và doanh nghiệp, các tổ chức xã hội làm được thì Nhà nước không ôm), để đạt được mục tiêu tinh giản hóa bộ máy, giảm chi tiêu và đầu tư của nhà nước, huy động được nguồn lực, nâng cao chất lượng dịch vụ công, đồng thời mở ra thị trường và không gian phát triển cho khu vực kinh tế tư nhân – “một mũi tên trúng được nhiều đích”.
Đối với các dịch vụ phát triển kinh doanh, đề nghị các bộ ngành và địa phương có kế hoạch chuyển giao sớm cho các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng. Các công trình dự án đầu tư công lớn cần đưa ra bàn bạc với cộng đồng doanh nghiệp. Với sự chung tay của các doanh nghiệp Việt (gồm cả doanh nghiệp nhà nước và tư nhân) thông qua các hình thức liên kết, liên danh - với thực tiễn của những công trình lớn tiêu biểu mà họ đã thực hiện như: các khu đô thị lớn nhất Việt Nam, tòa nhà cao nhất Việt Nam, các sân bay, bến cảng, tuyến đường cao tốc đạt kỷ lục về thời gian hoàn thành xây dựng và chất lượng xây dựng, các dự án sản xuất ô tô, dịch vụ hàng không, thành phố thông minh… đầy triển vọng, chúng ta tin rằng, các doanh nghiệp Việt có thể chung tay với Nhà nước đóng vai trò chủ trì theo phương thức đối tác công-tư trong xây dựng các công trình lớn hàng đầu của đất nước, đặc biệt là các dự án có ý nghĩa chính trị, kinh tế và xã hội rộng lớn, biểu tượng cho tinh thần dân tộc và sự phát triển của quốc gia như: các tuyến đường cao tốc Bắc Nam, Sân bay quốc tế Long Thành,.... và các dự án chiến lược khác. Đây là nguyện vọng của cộng đồng doanh nghiệp Việt, là trách nhiệm của họ với đất nước và cũng là cơ hội thị trường và cơ hội kinh doanh để họ có thể lớn lên. Sau hơn 40 năm đất nước thống nhất, sau hơn 30 năm đổi mới, đây có lẽ là thời điểm thích hợp các doanh nghiệp Việt có thể hợp sức làm nên những công trình có tầm vóc lịch sử này.
Không chỉ cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đối tác công-tư còn là một cơ chế có thể thúc đẩy phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn trong quá trình công nghiệp hóa như công nghiệp ô tô, đóng tàu, công nghiệp thông tin-viễn thông, dịch vụ vận tải đường sắt, hàng không… Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập Ủy ban Đối tác công-tư trong Hội đồng Quốc gia về Phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh do Chủ tịch VCCI làm chủ tịch. Đó là một cơ chế phù hợp để liên kết doanh nhân Việt và đưa ra các sáng kiến và chương trình hành động đối tác công-tư. Để thúc đẩy công tác này, chúng tôi đề nghị Chính phủ sớm trình Quốc hội ban hành Luật về đối tác công-tư để bảo đảm thuận lợi, minh bạch, an toàn, bảo vệ hài hòa lợi ích của nhà đầu tư, của nhà nước và tất cả các chủ thể có liên quan. Đó là điều kiện cần không thể thiếu làm điểm tựa niềm tin và khung khổ pháp lý vững chắc cho việc triển khai các dự án đối tác công-tư trong thời gian tới.
8. Thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân không thể tách rời khỏi các chính sách tái cấu trúc khu vực DN nhà nước và thu hút chọn lọc các DN FDI.
Thực hiện chủ trương này, chúng ta có thể vừa tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, vừa tạo dư địa cho phát triển kinh tế tư nhân. Các biện pháp cần triển khai là: Tạo điều kiện khu vực tư nhân, nhất là các DNNVV có thể tham gia mua cổ phần của các DN nhà nước, tham gia các dự án của Nhà nước và các gói thầu mua sắm công… Xây dựng các hàng rào kỹ thuật phù hợp để định hướng làn sóng đầu tư FDI mới phù hợp với yêu cầu của đất nước và không chèn lấn sự phát triển của khu vực tư nhân trong nước. Vận động khuyến khích các DN FDI hỗ trợ nâng cao năng lực các doanh nghiệp nhỏ và vừa và liên kết với khu vực tư nhân trong nước.
9. Bảo vệ các doanh nghiệp làm ăn chân chính như bảo vệ “tài sản quốc gia”.
Phù hợp với các nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, khảo sát PCI của VCCI những năm qua đã cho thấy sự yếu kém của các thiết chế pháp lý trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính đáng của cộng đồng doanh nghiệp đang là một trong những mối quan ngại hàng đầu. Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi đề nghị Chính phủ chủ động phối hợp với Toà án Nhân dân tối cao và các cơ quan tư pháp liên quan đẩy mạnh hơn nữa cải cách tư pháp, đảm bảo thủ tục xét xử các tranh chấp kinh doanh nhanh gọn, minh bạch và hiệu quả. Có chiến lược thúc đẩy hình thức giải quyết tranh chấp dưới hình thức trọng tài và hoà giải thương mại. Kiểm soát và giảm thiểu tối đa các vụ việc hình sự hoá các quan hệ kinh tế. Thay đổi phương thức thanh tra kiểm tra doanh nghiệp hiện nay bằng phương pháp quản lý rủi ro, giảm đầu mối, giảm chồng chéo… Những nỗ lực này sẽ giúp an lòng doanh nghiệp và động viên họ cống hiến hết mình cho sự phát triển quốc gia.
10. “Made-in-Vietnam”, “Made-by-Vietnam” là màu cờ, sắc áo.
Những nỗ lực cải cách thể chế mạnh mẽ tập trung giải quyết những điểm nghẽn trên đây cộng hưởng với chương trình hành động thúc đẩy hội nhập, nhất là việc bảo đảm thực thi có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và quá trình chuyển đổi số sẽ mở ra những không gian phát triển chưa từng có cho khu vực kinh tế tư nhân.
Chính phủ kiến tạo - nhân dân khởi nghiệp - cải cách thể chế và nâng cấp doanh nghiệp cần là những việc song hành để bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững.
Về phần mình, cộng đồng doanh nghiệp một mặt, cần chung tay với chính phủ trong việc tiếp tục hiến kế thúc đẩy cải cách thể chế, mặt khác phải xuất phát từ tầm nhìn phát triển bền vững để định vị lại chiến lược, cơ cấu lại quản trị, nâng cấp các hoạt động đầu tư kinh doanh, chuyển đổi số, hướng tới các chuẩn mực toàn cầu. Chúng tôi đề nghị, cộng đồng doanh nghiệp với sự yểm trợ của chính phủ, đoàn kết thực hiện các chương trình “Khởi nghiệp”, chương trình “Doanh nghiệp phát triển bền vững”, chương trình “Nâng cao năng suất quốc gia” và chương trình Made-in-Vietnam – Made-by-Vietnam: “Hàng Việt Nam chinh phục người Việt Nam và thế giới”. Đó là những trọng tâm của phong trào thi đua yêu nước của cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân vì “mầu cờ, sắc áo Việt Nam” trong thời đại mới.