MB sẵn sàng chuẩn hóa Basel II
Trong nhóm 10 tổ chức tín dụng được thí điểm triển khai Basel II từ đầu 2016, ngân hàng TMCP Quân đội (MB) hiện đã tiệm cận và để lại khoảng cách so với chỉ tiêu tối thiểu đề ra.
DĐDN đã có cuộc trao đổi với bà Phạm Thị Trung Hà – Phó Tổng Giám đốc MB để hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Bà Phạm Thị Trung Hà – Phó Tổng Giám đốc MB
- Theo lộ trình, năm 2019 là năm cuối cùng để 10 ngân hàng trong đó có MB hoàn thành thí điểm Basel II theo yêu cầu của NHNN. Vậy đến nay, MB đã chuẩn bị như thế nào, thưa bà?
Tại MB, ngay từ giai đoạn chiến lược 2011 – 2015 và tiếp tục trong giai đoạn chiến lược 2017 – 2021, Quản trị rủi ro vượt trội được xác định là 1 trong 2 nền tảng để thực thi chiến lược. Theo đó, Basel 2 đã được MB nghiên cứu từ sớm (năm 2012) và ngày càng đóng vai trò rõ nét, quan trọng hơn trong việc thực thi chiến lược quản trị rủi ro của ngân hàng. Với mục tiêu “Quản trị rủi ro – đồng hành cùng kinh doanh, gia tăng thu nhập và cân bằng rủi ro”, triển khai Basel 2 tại MB, do đó, không chỉ nhằm tuân thủ lộ trình của NHNN, mà còn hướng tới nâng cao năng lực quản trị nội bộ, giúp bảo vệ các thành quả về tăng trưởng, lợi nhuận của ngân hàng một cách bền vững.
Với mục tiêu rõ ràng đó, MB đã triển khai triển khai Basel 2 từ trước khi NHNN chính thức ban hành Thông tư 41. Năm 2012, MB đã thuê tư vấn Deloitte để xây dựng Khung quản trị rủi ro hoạt động gồm Chiến lược, chính sách, khẩu vị rủi ro hoạt động và quy trình thực hiện 03 công cụ RRHĐ là LDC, RCSA và KRI. Đến năm 2014, MB đã phối hợp với Công ty Ernst& Young Singapore để thực hiện dự án phân tích khoảng cách và xây dựng lộ trình triển khai Basel 2. Lộ trình này bên cạnh việc tuân thủ lộ trình của NHNN, thì cũng xác định 25 cấu phần MB cần chủ động thực hiện để ứng dụng trong công tác quản trị và kinh doanh. Đến nay, MB đã hoàn thành 14 cấu phần, đưa vào vận hành; và còn tiếp tục triển khai 11 cấu phần từ nay tới năm 2020 (các mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng PD, LGD, EAD; Kiểm tra sức chịu đựng về vốn và thanh khoản; Khung quản lý kinh doanh liên tục,…)
Các thành quả triển khai Basel 2 tại MB được thể hiện rõ nét qua các khía cạnh sau:
Về năng lực quản trị, MB đã tổ chức ứng dụng mô hình 3 vòng bảo vệ vào hoạt động quản trị của ngân hàng đảm bảo phân tách rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị, tránh chồng chéo, tăng ý thức trách nhiệm của toàn ngân hàng trong việc nhận diện, đánh giá, theo dõi và kiểm soát rủi ro. Mô hình này thể hiện rõ ràng thông qua việc thiết lập và vận hành hiệu quả, thường xuyên, liên tục cơ chế giám sát của các Ủy ban, Hội đồng chuyên trách cấp Hội đồng quản trị và Ban điều hành như Ủy ban QTRR, Ủy ban ALCO, Ban chỉ đạo xử lý rủi ro công nghệ.
Đồng thời, tại MB cũng đã tổ chức quản lý các mảng hoạt động theo trục dọc xuyên suốt từ Hội sở xuống chi nhánh. Các khâu tiềm ẩn rủi ro xung đột lợi ích như bán hàng, thẩm định, phê duyệt và hỗ trợ tín dụng được thực hiện bởi các đơn vị độc lập nhau, đảm bảo khách quan, minh bạch. Các chức năng có tính chất quản lý hệ thống như thẩm định, phê duyệt, hỗ trợ tín dụng; kế toán - tài chính, nhân sự, công nghệ thông tin được tập trung hóa tại Hội sở. Các chi nhánh chuyên tâm thực hiện chức năng kinh doanh trong khuôn khổ các chính sách, quy định do Hội sở xây dựng và chịu sự giám sát của Hội sở.
Về năng lực kinh doanh: Các mô hình/công cụ đo lường rủi ro, các phần mềm/ứng dụng quản trị rủi ro MB phát triển, xây dựng trong khuôn khổ Basel 2 được gắn kết chặt chẽ với việc tạo ra các giá trị cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hệ thống xếp hạng tín dụng theo phương pháp thống kê (và tiến tới là các mô hình PD, LGD, EAD) ngoài việc đo lường mức độ rủi ro tín dụng, cũng hỗ trợ đắc lực cho công tác thẩm định, phê duyệt tín dụng của ngân hàng, rút ngắn thời gian cung cấp dịch vụ tới khách hàng. Các mô hình VaR, ∆NII, EVE, công cụ phân tích hành vi của khách hàng do MB tự phát triển được ứng dụng mạnh mẽ trong việc quản trị an toàn các hoạt động kinh doanh nguồn vốn và tiền tệ, cũng như góp phần cơ cấu lại bảng cân đối kế toán của ngân hàng theo hướng tăng hiệu quả. Các hệ thống quản lý tài sản bảo đảm, hệ thống quản lý thu hồi nợ,… bên cạnh chức năng thu thập, lưu trữ dữ liệu phục vụ xây dựng các mô hình định lượng rủi ro tín dụng, cũng mang lại các giá trị gia tăng cho đơn vị kinh doanh trong việc quản lý tài sản bảo đảm và theo dõi, quản lý các khoản nợ có vấn đề. Với các công cụ này, rủi ro được nhận diện và thông tin đến người ra quyết định một cách nhanh chóng, hạn chế những bất lợi và tạo lợi thế kinh doanh.
Về văn hóa quản trị rủi ro: Ý thức, trách nhiệm quản trị rủi ro được nhận thức rộng rãi trong toàn ngân hàng, bởi tất cả các cán bộ nhân viên (không phải chỉ riêng cơ quan quản trị rủi ro chuyên trách tại Hội sở). MB có sự ủng hộ và cam kết đầu tư, chú trọng cho quản trị rủi ro từ cấp Hội đồng Quản trị và Ban điều hành cũng như sự phối hợp đồng bộ giữa các đơn vị trong ngân hàng thông qua các hội đồng, ủy ban thuộc HĐQT và BĐH. MB cũng đã ban hành khẩu vị rủi ro toàn hàng và các chính sách, quy định, quy trình quản trị các loại rủi ro trọng yếu nhằm đảm bảo tất cả các đơn vị hiểu rõ vai trò trách nhiệm của mình trong công tác quản trị rủi ro. Bên cạnh đó, qua các bản tin Basel hàng tuần cũng như tập san Basel, cán bộ nhân viên toàn hàng đều có thể nắm được các nguyên tắc, thông lệ về quản trị rủi ro, các rủi ro được quản lý và nhận diện thông qua hệ thống chỉ tiêu giám sát trong kết quả kinh doanh hàng ngày của cán bộ nhân viên. MB cũng đang từng bước cải thiện năng lực quản trị rủi ro của các công ty con và các công ty con đang là các đơn vị tiên phong trong việc áp dụng các chuẩn mực quản trị rủi ro trong lĩnh vực mà các công ty đang hoạt động.
- Vậy trong quá trình thực thi, MB gặp phải những khó khăn, thách thức nào, thưa bà?
Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được trong thời gian qua, tương tự các ngân hàng khác, MB cũng gặp phải một số thách thức đến từ: (i) thay đổi phương thức quản lý mối quan hệ với khách hàng và (ii) quản trị dữ liệu.
Thứ nhất, yêu cầu khắt khe về hệ số an toàn vốn của Basel 2 đặt các ngân hàng dưới áp lực tối ưu hóa danh mục tài sản có. Điều này sẽ đòi hỏi ngân hàng thay đổi hành vi kinh doanh, như lựa chọn khách hàng có năng lực tài chính tốt và minh bạch (hệ số rủi ro thấp), tăng cường giám sát sau giải ngân, định giá khoản tín dụng phù hợp với mức độ rủi ro của khách hàng, cấp và quản lý việc sử dụng hạn mức tín dụng như thế nào để hiệu quả,… Tất cả những việc này sẽ tác động tới mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Khó khăn hơn là nếu chỉ một số ngân hàng áp dụng chuẩn mực này thì khách hàng vẫn có thể lựa chọn vay tại ngân hàng khác vì không phả đáp ứng nhiều yêu cầu về quản lý và giám sát khách hàng.
Thứ hai là vấn đề về dữ liệu để xây dựng mô hình và phục vụ hệ thống thông tin quản lý, cung cấp đầu vào cho các quyết định quản trị và kinh doanh của Ban lãnh đạo ngân hàng. Dữ liệu không đầy đủ và cập nhật thường xuyên, không được thu thập và quản trị một cách có hệ thống trong giai đoạn dài, gây ảnh hưởng rất nhiều tới tính chính xác của các mô hình và công cụ quản trị rủi ro, tính chính xác và kịp thời của các báo cáo quản trị. Nhận thức được vấn đề này, chúng tôi đã và đang triển khai đồng bộ giải pháp Kho lưu trữ dữ liệu tập trung (Data warehouse) và Khung Quản trị dữ liệu. Dự kiến toàn bộ các nội dung này sẽ được MB hoàn thành trong năm 2018.
- Xin bà cho biết, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) của MB tính đến hết năm 2017 là bao nhiêu? Để đảm bảo các yêu cầu của Basel II về an toàn vốn, trong năm 2018, MB sẽ có những giải pháp thế nào?
Đến cuối năm 2017, CAR hợp nhất và riêng lẻ theo TT36 của MB lần lượt là 12% và 10.66%, cao hơn mức tối thiểu 9% của NHNN. Khi thực hiện tính toán theo chuẩn mực mới Basel 2, các con số này của năm 2018 dự kiến lần lượt là 9.7% và 8.7% (đảm bảo lớn hơn 8% - mức tối thiểu theo thông tư 41).
Để đạt được con số dự kiến nêu trên cho năm 2018 trong bối cảnh kế hoạch tăng trưởng tổng tài sản ~ 20% và tăng trưởng tín dụng theo quy định của NHNN (15%), MB triển khai đồng thời cả 2 giải pháp là tăng vốn tự có và giảm tổng tài sản có rủi ro.
Việc tăng vốn của năm 2018 cơ bản đã nằm trong kế hoạch tăng vốn được HĐQT xây dựng cho giai đoạn chiến lược 2017 – 2021. Cả giai đoạn này, MB sẽ thực hiện linh hoạt nhiều giải pháp như tăng vốn điều lệ, trả cổ tức bằng cổ phiếu, phát hành công cụ nợ thứ cấp dài hạn và từ nguồn lợi nhuận giữ lại. Cụ thể cho từng năm, Ban lãnh đạo MB sẽ xem xét các yếu tố thị trường, và hiệu quả sử dụng vốn của MB để quyết định giải pháp, thời điểm triển khai phù hợp, tối ưu về chi phí.
Về phần sử dụng vốn (phía tài sản của Bảng cân đối – bao gồm cả nội bảng và ngoại bảng), MB từng bước tối ưu hóa danh mục tài sản có, tập trung vào những tài sản tiêu tốn ít vốn (những tài sản có hệ số rủi ro thấp), những tài sản mang lại lợi nhuận cao trong tương quan với mức độ rủi ro của tài sản đó. Trước mắt, MB sử dụng kết quả tính toán theo TT41 để khoanh vùng những danh mục có giá trị tài sản có rủi ro lớn, xem xét các cơ hội giảm tài sản có rủi ro (ví dụ: các đối tượng doanh nghiệp thông tin tài chính không cập nhật). Còn về dài hạn, chúng tôi sẽ sử dụng kết quả tính vốn theo TT41 để phân bổ vốn cho các phân khúc kinh doanh trên nguyên tắc đo lường tỷ lệ sinh lời sau điều chỉnh rủi ro. Đồng thời, các chính sách kinh doanh cũng sẽ được điều chỉnh để lựa chọn được những khác hàng có năng lực tài chính tốt và minh bạch.
- Tăng vốn luôn là vấn đề quan trọng nhất đối với bất kỳ ngân hàng nào, bởi đó được coi là “gối đệm” cho ngân hàng có thể ứng phó đối với những biến động xảy ra. Xin bà cho biết, MB có kế hoạch tăng vốn trong năm 2018 hay không? Nếu có, MB sẽ tăng vốn theo những cách nào và tỷ lệ ra sao? Nếu không, vì sao?
Năm 2018, MB sẽ tiếp tục thực hiện tăng vốn theo kế hoạch vốn của giai đoạn 2017-2021. Cụ thể trong năm 2018, MB dự kiến sẽ tăng thêm 3.449 tỷ đồng (19%) vốn điều lệ từ nguồn trả cổ tức bằng cổ phiếu và phát hành cổ phiếu thưởng; đồng thời giữ lại 1 phần từ lợi nhuận sau thuế của năm 2017 (vốn điều lệ sau khi tăng dự kiến đạt 21.605 tỷ đồng).
- Xin cảm ơn bà!