bất cập lớn nhất của các nhà máy thủy điện tư nhân ở Việt Nam là không có năng lực dự báo. Ảnh: Internet

Bất cập lớn nhất của các nhà máy thủy điện tư nhân ở Việt Nam là không có năng lực dự báo. Ảnh: Internet

Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Sê San.

Theo đó, hàng năm, các hồ: Thượng Kon Tum, Đăk Bla 1, PleiKrông, Ialy, Sê San 3, Sê San 3A, Sê San 4 và Sê San 4A trên lưu vực sông Sê San phải vận hành theo nguyên tắc thứ tự ưu tiên.

Thủy điện hiện vẫn là một trong những nguồn năng lượng quan trọng góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Tuy nhiên, còn những bất cập trong quy trình vận hành hồ chứa tại các nhà máy thủy điện, nhất là các nhà máy thủy điện nhỏ, cùng với những yếu kém trong quan trắc dự báo dẫn đến việc xả lũ.

Câu hỏi đặt ra là tại sao không dự báo được sớm về lưu lượng mưa và nước về hồ để chủ động ứng phó trước mà lại ồ ạt, gây thiệt hại lớn về tính mạng và tài sản cho nhân dân?. Ông Trần Viết Ngãi - Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam nhận định, nhược điểm của chúng ta là không có công cụ tính toán để đưa ra hiệu quả kinh tế cao nhất cho hồ thủy điện. Tiết kiệm được nước là quý nhưng cần học cách tính toán quản lý vận hành hồ chứa để tránh vỡ đập và không gây ngập lụt.

Từng có thời gian đi khảo sát tại các nhà máy thủy điện tại Việt Nam trong 10 năm qua, ông Hà Ngọc Tuấn - Kỹ sư trưởng Tập đoàn Điện lực Kyushu (Nhật Bản) cho rằng, bất cập lớn nhất của các nhà máy thủy điện tư nhân ở Việt Nam là không có năng lực dự báo và công cụ vận hành quy trình một cách hiệu quả.

Theo ông Tuấn, hiện phía Nhật Bản đang thử nghiệm Chương trình điều khiển dòng chảy HNT, giúp dự báo chính xác về lượng mưa và lượng nước về cũng như lượng nước dự trữ trong hồ, để điều chỉnh cửa van, dòng chảy ra vào hợp lý, không lãng phí nước và đặc biệt là có thể kiểm soát xả lũ an toàn. Công nghệ này đang áp dụng thành công ở Thủy điện Thác Xăng, tỉnh Lạng Sơn. Hồ chứa đã được điều hành theo hướng tiết kiệm nước và không gây ra lũ nhân tạo.

“Ý tưởng phần mềm này dành cho các hồ thủy điện nhỏ. Hồ lớn còn có thời gian nhưng hồ nhỏ mới đáng lo. Hồ nhỏ khả năng chứa thấp, nguy cơ về tràn rất cao nên dùng công cụ phản ứng với lũ về. Mực nước xả ra không được lớn hơn mực nước vào hồ, không gây ra lũ nhân tạo. Để kiểm soát phải dự báo tốt lưu lượng vào hồ. Chúng tôi có công nghệ cho phép tính được lưu lượng vào hồ theo thời gian thực, khắc phục được tình trạng hồ chứa Việt Nam xả lũ nhân tạo”, ông Tuấn nói.

Hiện cả nước có 330 nhà máy thủy điện đang vận hành, các hồ đập thủy điện có tổng dung tích khoảng 56 tỷ m3, chiếm 86% tổng dung tích hồ chứa trên cả nước. Để phối hợp vận hành hồ chứa trên từng lưu vực sông có hiệu quả, ngoài những vấn đề về năng lực dự báo, năng lực vận hành hồ, thì vấn đề bảo đảm thông tin kịp thời, thống nhất là hết sức quan trọng.

Giữa các chủ hồ đập với các cấp chính quyền địa phương cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn khi thông tin xả lũ để người dân ứng phó, giảm thiểu thiệt hại. Bên cạnh đó, cần sớm đưa ra những qui định cụ thể, chi tiết về hành lang thoát lũ, giảm thiệt hại cho người dân vùng hạ lưu khi thủy điện xả lũ.