Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST) vừa có đơn kêu cứu khẩn cấp gửi các cơ quan chức năng về việc áp mã HS đối với mặt hàng gỗ ghép thanh xuất khẩu (XK) .

Chế biến gỗ ván tại Công ty CP Vĩnh An (huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng). Ảnh: Dân Việt.

Chế biến gỗ ván tại Công ty CP Vĩnh An (huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng). Ảnh: Dân Việt.

Theo văn bản số 59 -2020/DC-VIFOREST do ông Đỗ Xuân Lập, Chủ tịch VIFOREST ký, VIFOREST khẳng đinh, việc Tổng cục Hải quan (TCHQ) ban hành văn bản số 4250/TB-TCHQ ngày 24/6/2020 đang gây khó khăn cho các doanh nghiệp.

Theo đó, với văn bản này, ván ghép thanh, chủ yếu sử dụng nguyên liệu gỗ keo rừng trồng và gỗ cao su, bị áp mã  HS 4407 “Gỗ đã cưa và xẻ theo chiều dọc, lạng hoặc bóc, đã hoặc chưa bào, chà nhám hoặc ghép nối đầu, có độ dày trên 6 mm” thuộc phân nhóm HS 440729.97.90 và bị coi là sản phẩm sơ chế, như gỗ xẻ thanh, bị áp thuế XK 25% để hạn chế, thậm chí ngăn chặn XK vì không tạo nhiều giá trị gia tăng và vì phải dành nguyên liệu cho công nghiệp chế biến trong nước.    

Văn bản này của TCHQ đã khiến cho nhiều doanh nghiệp lao đao vì nhiều ngày qua, sản phẩm ván ghép thanh bị ùn tắc tại nhiều cảng và nhiều doanh nghiệp bị đối tác thương mại phạt chậm giao hàng”, ông Đỗ Xuân Lập nhấn mạnh.

Điều chú ý, cũng với mặt hàng đó, theo kết quả kiểm tra của Hải Quan (số 377/TB-KĐ 4 ngày 13/3/2019) thì lại được ghép mã khai báo khi làm thủ tục XK ở mã HS 4418. Hiện mức thuế XK áp với mã HS 4418 là 0% .

Từ trước cho tới nay mặt hàng gỗ ghép thanh thường được áp mã HS 4418, tuy nhiên với thông báo mới nhất của TCHQ, mặt hàng này bị áp mã HS 4407 với mức thuế xuất áp là 25%...”, ông Lập cho biết.

Trước những khó khăn của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh gỗ ván thanh, VIFOREST đề nghị Bộ Tài chính xem xét thông báo ngay để hải quan ở các địa phương cho doanh nghiệp XK gỗ ván ghép thanh với thuế suất bằng 0%; xem xét và hủy bỏ ngay Thông báo số 4250/TB-TCHQ, ngày 24/6/2020.

Ông Hà Công Tuấn - Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - cho rằng, việc Tổng cục Hải quan áp dụng mã hàng hóa của ván ghép thanh theo mã HS 4407 là không phù hợp với Thông tư 65 cũng như ý kiến của Bộ Tài chính tại Văn bản số 9365/BTC ngày 1/7/2009. Để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị Bộ Tài chính chỉ đạo Tổng cục Hải quan không điều chỉnh mà vẫn áp mã hàng xuất khẩu 4418 đối với ván ghép thanh và các sản phẩm đồ mộc có sử dụng ván ghép thanh như hiện nay theo đề nghị của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam.

Hiện nay, cả nước có 146 doanh nghiệp sản xuất ván ghép thanh, với công suất khoảng 570.000m3 phẩm/năm; nguyên liệu sản xuất ván ghép thanh là các loại gỗ rừng trồng trong nước, chủ yếu là gỗ keo, cao su, bạch đàn.

Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, giá trị xuất khẩu ván ghép thanh năm 2019 đạt 332,7 triệu USD, chiếm 2,9% tổng giá trị xuất khẩu lâm sản, tăng 16,7% so với năm 2018; 6 tháng đầu năm 2020 đạt 181,5 triệu USD, chiếm 3,4% giá trị xuất khẩu, tăng 20,6% so với cùng kỳ năm 2019. Trên thị trường, ván ghép thanh có giá xuất khẩu cao gấp 3-4 lần giá gỗ xẻ (gỗ xẻ giá từ 3,4-3,6 triệu đồng/m3; ván ghép thanh giá từ 10-14 triệu đồng/m3).Trong khi đó, để làm ra 1m3 ván ghép thanh cần sử dụng 1,7-1,8 m3 gỗ xẻ.

Thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, cả nước có trên 2.000 hộ gia đình đang tham gia và khâu xẻ gỗ. Phát triển sản xuất gỗ ghép, góp phần giảm chi phí vận chuyển gỗ tròn về vùng có các nhà máy chế biến gỗ và mang lại giá trị gia tăng cho ngành chế biến gỗ. Đồng thời, sản xuất mặt hàng này giúp giải quyết vấn đề nguyên liệu lãng phí trong ngành gỗ, tận dụng được tối đa nguyên liệu và giải bài toán cây gỗ lớn đối với ngành lâm nghiệp.

Theo báo cáo của Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NNPTNT), hiện cả nước có 146 doanh nghiệp sản xuất ván ghép thanh với công suất khoảng 570.000m3, nguyên liệu sản xuất ván ghép thanh là các loại gỗ rừng trồng trong nước như keo, cao su, bạch đàn.

Giá trị xuất khẩu ván ghép thanh năm 2019 đạt 332,7 triệu USD, chiếm 2,9% tổng giá trị xuất khẩu lâm sản. Chỉ tính riêng trong 6 tháng đầu năm 2020, giá trị xuất khẩu ván ghép thanh đạt 181,5 triệu USD, tăng 20,6% so với cùng kỳ năm 2019.

Hiện, ván ghép thanh có giá xuất khẩu gấp 3 – 4 lần gỗ xẻ, trong khi để làm ra 1m3 ván ghép thanh cần 1,7 – 1,8m3 gỗ xẻ.

Cũng theo Tổng cục Lâm nghiệp, quy trình sản xuất ván ghép thanh phải qua hai giai đoạn. Giai đoạn 1 là tạo thanh cơ sở, gồm các công đoạn để tạo ra thanh gỗ xẻ.

Giai đoạn 2 là tạo ván ghép thanh. Giai đoạn này gồm 9 công đoạn để chế biến thanh cơ sở: Tẩm sấy, bào hai mặt, bào 4 mặt, tạo mộng ghép, ghép dọc bằng keo tạo thanh dài, bào 4 mặt thanh dài đã ghép, ghép tạo chiều rộng bằng keo, chà nhám, đánh bóng sản phẩm và sơn bảo quản hoàn thiện sản phẩm.

Trước thực tế đó, Tổng cục Lâm nghiệp kiến nghị quá trình sản xuất ván ghép thanh đã làm thay đổi hoàn toàn kết cấu của thanh gỗ xẻ cơ sở ban đầu thông qua các công đoạn chế biến sâu để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh.

"Vì vậy, việc áp dụng mã hàng hóa của ván ghép thanh theo mã HS 4407 là không phù hợp, không khuyến khích được doanh nghiệp trong nước sản xuất chế biến sâu để hạn chế nhập khẩu đối với loại ván này" – Tổng cục Lâm nghiệp nhấn mạnh.

Để tạo điều kiện, thúc đẩy xuất khẩu lâm sản trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị ngưng trệ, giá trị xuất khẩu lâm sản sụt giảm, Tổng cục Lâm nghiệp đề nghị Thứ trưởng Thường  trực Bộ NNPTNT Hà Công Tuấn xem xét, ban hành văn bản đề nghị Bộ Tài chính chỉ đạo Tổng cục Hải quan không điều chỉnh mà vẫn áp mã hàng xuất khẩu 4418 đối với ván ghép thanh và các sản phẩm đồ mộc có sử dụng ván ghép thanh theo đề nghị của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam.

(còn tiếp)