>> [TRỰC TIẾP] Diễn đàn “Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp hiệu quả, bền vững”

TS Cấn Văn Lực – Thành viên hội đồng tư vấn Chính sách tài chính Tiền tệ Quốc gia

Đó là nhận định của TS. Cấn Văn Lực – Thành viên hội đồng tư vấn Chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia tại Diễn đàn “Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp hiệu quả, bền vững" do Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức chiều ngày 19/5.

Nhu cầu vốn trung và dài hạn lớn

Dẫn số liệu nghiên cứu của ADB, TS. Cấn Văn Lực cho biết thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) Việt Nam phát triển tương đối nhanh. Đến hết tháng 3 năm nay, tổng dư nợ thị trường trái phiếu đạt 3,3 triệu tỷ đồng, tương đương khoảng 37,4% GDP, trong đó dư nợ TPDN tương đương 14,8% GDP.

Tuy nhiên, so với các nước Châu Á như Hàn Quốc, Trung Quốc, quy mô thị trường TPDN của Việt Nam tuy nhanh nhưng vẫn còn nhiều dư địa để phát triển bởi nhu cầu về vốn trung và dài hạn rất lớn trong thời gian tới.

Vấn đề đặt ra hiện nay là trong các năm qua, thị trường TPDN phát triển tương đối nóng nên cần có giải pháp để kiểm soát. Trong 4 tháng đầu năm nay, quy mô phát hành TPDN đã giảm, đặc biệt TPDN do các doanh nghiệp bất động sản phát hành đã giảm mạnh so với cùng kỳ năm ngoái, cho thấy thị trường đã được kiểm soát chặt chẽ và đã giảm nhiệt.

Về vấn đề pháp lý, theo TS. Cấn Văn Lực, thực tế pháp lý đã phát triển tương đối nhanh để đáp ứng nhu cầu thị trường TPDN nhưng thị trường vẫn đòi hỏi những quy định pháp lý cao hơn.

TS. Cấn Văn Lực cũng cho biết thị trường TPDN Việt Nam đang rất tiềm năng. Theo Chiến lược tài chính đến năm 2030, dư nợ trái phiếu cần đạt quy mô 47% GDP vào năm 2025 (trong đó, TPDN đạt 20% GDP) và 58% GDP năm 2030 (trong đó, TPDN đạt 25% GDP). Hơn nữa, triển vọng kinh tế vĩ mô của Việt Nam vẫn được đánh giá tốt, đặt mục tiêu tăng trưởng 6,5-7% đến năm 2030 (NQ Đại hội 13).

Không những vậy, Việt Nam có nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ sở hạ tầng nên rất cần vốn trung- dài hạn (ngoài vốn tín dụng ngân hàng, từ nay đến 2030, mỗi năm Việt Nam cần huy động 700.000 – 1 triệu tỷ đồng vốn trung- dài hạn).

Những vấn đề đặt ra

TS. Cấn Văn Lực cho rằng, hệ thống ngân hàng thương mại đang quá sức trong cho vay vốn dài hạn. Do đó, kênh huy động vốn qua thị trường trái phiếu là vô cùng quan trọng, vấn đề là điều tiết thị trường TPDN như thế nào để phát triển lành mạnh hơn.

Thứ nhất, chất lượng TPDN tiềm ẩn rủi ro khi TPDN phát hành riêng lẻ chiếm đa số (94,5% thời gian qua).

Thứ hai, xuất hiện rủi ro cho nhà đầu tư khi nhiều tài sản đảm bảo (TSBĐ) có rủi ro thay đổi giá trị nhanh (như cổ phiếu, quyền tài sản phát sinh…), hay TSBĐ khó xác định giá trị (bao gồm BĐS hình thành trong tương lai, cổ phiếu chưa niêm yết…).

Thứ ba, năng lực, uy tín của chủ thể phát hành chưa đảm bảo; trong khi còn xảy ra hiện tượng lách luật và báo cáo tài chính, cáo bạch phát hành chưa đủ mức công khai, minh bạch.

Thứ tư, nền tảng nhà đầu tư còn yếu, khá nhiều NĐT cá nhân (lên đến 30% đầu tư thứ cấp; tự đầu tư, chưa ủy thác qua các quỹ đầu tư); thiếu các quỹ hưu trí, quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư khác…

Thứ năm, quy định pháp luật về phát hành TPDN tuy đang dần được hoàn thiện, nhưng chưa thực sự chặt chẽ, trong khi các chủ thể tham gia thị trường rất tinh vi, tinh xảo và thị trường phát triển rất nhanh.

Thứ sáu, thị trường thiếu vắng việc định hạng tín nhiệm, dẫn đến thiếu cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm hay rủi ro của tổ chức phát hành hoặc từng đợt phát hành.

Giải pháp lành mạnh thị trường

Theo TS. Cấn Văn Lực, để lành mạnh hóa thị trường, cần vừa kiến tạo phát triển cho thị trường, vừa kiểm soát được rủi ro, trước mắt cần giải quyết dứt điểm các vụ việc vừa qua để củng cố niềm tin nhà đầu tư cũng như tránh tạo tiền lệ xấu.

Đồng thời cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý phù hợp: sớm sửa đổi Nghị định 153/2020/NĐ-CP về phát hành TPDN riêng lẻ, Nghị định 156/2020 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán; rà soát Luật chứng khoán 2019 tiến tới sửa đổi, trong đó nâng chuẩn nhà đầu tư chuyên nghiệp… Đặc biệt, cần cân nhắc mức độ phù hợp về quy định TSĐB, bảo lãnh phát hành, phân phối trái phiếu.

Bên cạnh đó, cần có quy định về định hạng tín nhiệm nhằm giúp nhà đầu tư dễ dàng xác định chất lượng doanh nghiệp, mức độ rủi ro của trái phiếu phát hành. Theo đó, cần xác định những trường hợp bắt buộc, trường hợp khuyến khích xếp hạng tín nhiệm; cần có quy định đảm bảo các công ty định hạng tín nhiệm có đủ năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp; nên xem xét cấp phép thành lập thêm 2-3 công ty định hạng khác, ngoài 2 công ty đã có; Làm rõ vai trò, trách nhiệm của tổ chức xếp hạng tín nhiệm và các trung gian tài chính liên quan.

Không những thế, cần có giải pháp tăng chất lượng TPDN được phát hành: xem xét quy định cụ thể hơn về quy mô, tần suất, điều kiện phát hành; hoạt động phát hành ra công chúng cần được hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi hơn (đơn giản hóa quy trình, rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ …).

Đặc biệt, cần hoàn thiện hạ tầng của thị trường TPDN như thiết lập thị trường thứ cấp tập trung đối với TPDN, qui định áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế; nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu… Đồng thời, tiếp tục phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ như là một chuẩn định hạng đối với TPDN.

Ngoài ra, cần phát triển nền tảng nhà đầu tư chứng khoán đa dạng, chuyên nghiệp; khuyến khích phát triển các nhà đầu tư tổ chức như quỹ đầu tư, quỹ mở, quỹ hưu trí…; khuyến khích hình thức ủy thác đầu tư; cải thiện chất lượng nhà đầu tư cá nhân thông qua tăng cường giáo dục tài chính cho người dân và những nhà đầu tư mới; yêu cầu minh bạch thông tin cho nhà đầu tư, đưa ra các sản phẩm phù hợp với nhà đầu tư cá nhân…, giúp họ nhận diện các rủi ro, có thêm các lựa chọn đầu tư tùy vào khẩu vị rủi ro, từ đó tránh những hệ lụy không đáng có...

Và cuối cùng cần hoàn thiện cơ chế và nâng cao chất lượng quản lý và giám sát thị trường TPDN, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, chứ không chỉ là biện pháp hành chính.