Để khuyến khích doanh nghiệp gia nhập thị trường, không chỉ cần đơn giản hóa các thủ tục pháp lý mà còn cần tạo điều kiện thuận lợi và đem lại cơ hội làm ăn cho doanh nghiệp.
Doanh nghiệp khởi nghiệp thường gặp bất lợi do "rào cản gia nhập ngành" khiến chi phí bình quân trên mỗi sản phẩm cao hơn những doanh nghiệp có thời gian hoạt động nhiều năm. Các yếu tố gây trở ngại bao gồm thực hiện các nghĩa vụ tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp mới thành lập như đăng ký kinh doanh, chuẩn bị cơ sở vật chất (văn phòng, nhà xưởng, hệ thống phân phối) và thiết lập các mối quan hệ đối tác kinh doanh.
Tùy vào lĩnh vực kinh doanh mà chi phí tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp khác nhau. Thông thường, ở lĩnh vực sản xuất, chi phí tuân thủ pháp luật lớn hơn với các thủ tục pháp lý phức tạp hơn, từ đăng ký thành lập doanh nghiệp, chuẩn bị các điều kiện kinh doanh (trường hợp ngành nghề kinh doanh có điều kiện) đến các thủ tục liên quan đến xây dựng như thẩm định thiết kế, điều kiện về phòng cháy chữa cháy, xử lý phát thải môi trường, các điều kiện liên quan đến xuất nhập máy móc thiết bị, hàng loạt giấy phép các loại...
Đây là một phần nguyên nhân dẫn đến số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ nhiều hơn trong lĩnh vực sản xuất. Để giảm chi phí pháp lý cho doanh nghiệp mới gia nhập ngành, cần nhanh chóng cải thiện các điều kiện về pháp lý sao cho đơn giản nhưng vẫn đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng và chặt chẽ trong quản lý doanh nghiệp.
Mặt khác, doanh nghiệp mới gia nhập thị trường luôn gặp khó khăn trong tiếp cận các đối tác cung ứng đầu vào, phân phối sản phẩm, thuê mướn mặt bằng, nhân sự, vận chuyển hàng hóa, làm gia tăng chi phí khá lớn, trong khi khả năng huy động nguồn vốn đầu tư rất hạn chế. Do vậy, các chương trình trợ giúp doanh nghiệp khởi nghiệp cần tập trung vào các giải pháp tháo gỡ những khó khăn này.
Để giúp doanh nghiệp tiếp cận thị trường, cần những chương trình kết nối cung - cầu thông qua tạo cơ hội cho các doanh nghiệp lớn gặp gỡ các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp khởi nghiệp tiếp xúc với các doanh nghiệp toàn cầu. Trở ngại lớn nhất trong hợp tác là doanh nghiệp nhỏ không nắm bắt được các tiêu chuẩn, yêu cầu của doanh nghiệp lớn nên trọng tâm của các chương trình kết nối này phải tháo gỡ được vướng mắc đó.
doanh nghiệp mới gia nhập thị trường trong lĩnh vực sản xuất luôn gặp rào cản lớn về vốn, công nghệ, tiếp cận khách hàng. Sẽ rất khó tồn tại nếu phải cạnh tranh với doanh nghiệp lớn, nên cần hợp tác với doanh nghiệp lớn để được nhận các đơn hàng sản xuất phụ trợ, tiếp nhận hướng dẫn công nghệ và vốn ứng trước từ các doanh nghiệp lớn. doanh nghiệp lớn muốn có hệ thống cung ứng ổn định cũng cần xây dựng đội ngũ doanh nghiệp nhỏ làm vệ tinh cho mình. Quá trình này sẽ diễn ra nhanh hơn nếu có cơ chế, chính sách thúc đẩy, trợ giúp cho các chương trình liên kết doanh nghiệp nhỏ với doanh nghiệp lớn.
Bên cạnh đó, các chương trình mua sắm công nên định hướng sử dụng một phần sản phẩm do các doanh nghiệp khởi nghiệp sản xuất, chẳng hạn như các đặc sản của địa phương do doanh nghiệp khởi nghiệp sản xuất cần được ưu tiên trong mua sắm công khi có nhu cầu. Song song đó, các chương trình liên kết giữa các địa phương trong và ngoài nước cần hướng đến tạo điều kiện để doanh nghiệp có cơ hội làm ăn với bên ngoài thông qua chính quyền phát động, doanh nghiệp là chủ thể tham gia chính. Do vậy, các chương trình liên kết hợp tác cần được thiết kế dựa trên nhu cầu của doanh nghiệp khởi nghiệp của địa phương mình.
doanh nghiệp mới thành lập thường không mạnh dạn thuê mướn nhân sự đủ chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện những công việc liên quan đến tuân thủ pháp luật như kê khai quyết toán thuế, lập kế hoạch kinh doanh, xây dựng hệ thống quản lý doanh nghiệp bài bản. Do vậy, rất cần những chương trình hỗ trợ cho việc xã hội hóa các dịch vụ trợ giúp pháp lý, kế toán, thuế, tư vấn hệ thống quản trị để doanh nghiệp khởi nghiệp được thuê mướn ngoài các dịch vụ này với chi phí thấp.
Thiếu mặt bằng sản xuất nên phần lớn cơ sở sản xuất xen kẽ trong khu dân cư dẫn đến ô nhiễm phân tán, rất khó xử lý, nếu xử lý được thì chi phí rất cao. Trong khi đó, ý thức bảo vệ môi trường của phần lớn doanh nghiệp nhỏ rất kém. Để tạo mặt bằng sản xuất cho doanh nghiệp, cần quy hoạch các cụm mặt bằng sản xuất cho các doanh nghiệp nhỏ với đầy đủ các hạ tầng phục vụ sản xuất và xử lý phát thải. Cần có chính sách hỗ trợ cho nhà đầu tư hạ tầng sao cho đảm bảo giá cho thuê mặt bằng thấp.
Khó khăn về vốn và khó tiếp cận vốn vay là phổ biến nhất, mặc dù có rất nhiều chính sách, giải pháp tiếp vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp như quỹ bảo lãnh tín dụng, quỹ hỗ trợ khởi nghiệp, quỹ đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp, hỗ trợ vốn mồi ở các trung tâm thực hiện chức năng ươm tạo doanh nghiệp... Những cách làm này chỉ giúp tháo gỡ được một phần khó khăn về vốn cho số ít doanh nghiệp. Trong khi đó loại hình tín dụng thuê mua (cho thuê tài chính) là phù hợp nhất với doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng vẫn chưa phổ biến ở Việt Nam, do vậy cần tiếp tục kiên trì phát triển kênh tiếp vốn này cho doanh nghiệp mới gia nhập thị trường.
Để hiện thực hóa mục tiêu phát triển doanh nghiệp, việc cấp bách cần làm là tháo gỡ các rào cản gia nhập thị trường theo hướng giảm thiểu chi phí gia nhập thị trường và tạo cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp. Đây là những việc trong tầm tay khi có sự phân định rõ ràng về trách nhiệm, quyền hạn của chính phủ và chính quyền địa phương.