Góp ý nội dung hoá đơn thương mại điện tử tại Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 123/2020/NĐ-CP quy định về hóa đơn, chứng từ, VCCI đề nghị làm rõ quy định về thời điểm lập hoá đơn thương mại điện tử
Theo đó, trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có văn bản trả lời Công văn số 2893/TCT-CS ngày 05/07/2024 của Tổng cục Thuế về việc đề nghị góp ý nội dung hoá đơn thương mại điện tử tại Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 123/2020/NĐ-CP quy định về hóa đơn, chứng từ (Dự thảo).
Cụ thể, tại văn bản góp ý, VCCI cho biết, Điều 9.1 Dự thảo quy định trong trường hợp xuất khẩu, nếu người bán đáp ứng điều kiện chuyển dữ liệu bằng phương thức điện tử đến cơ quan thuế, thì thời điểm lập hoá đơn thương mại điện tử chậm nhất không quá ngày làm việc tiếp theo kể từ ngày hàng hoá được thông quan.
Theo VCCI, quy định này chưa rõ ràng, ở một số điểm như: Thời điểm lập hoá đơn điện tử cho hàng hoá xuất khẩu là sau khi làm xong thủ tục cho hàng hoá xuất khẩu, theo Điều 13.2.c Nghị định 123/2020/NĐ-CP);
Thời điểm xác định doanh thu xuất khẩu để tính thuế là ngày xác nhận hoàn tất thủ tục hải quan trên tờ khai hải quan (Điều 3.7 Thông tư 119/2014/TT-BTC). Ngày hoàn tất thủ tục hải quan trên tờ khai được hiểu là ngày thông quan trên tờ khai hải quan, theo Công văn số 1605/GSQL-GQ1 ngày 02/12/2014 của Tổng cục Hải quan.
Đồng thời cho rằng, hai thời điểm không đồng nhất với nhau. Bởi, theo Công văn số 3446/TCHQ-GSHQ ngày 03/07/2023 của Tổng cục Hải quan trả lời Tổng cục Thuế thì tờ khai được thông quan sau khi hoàn thành thủ tục hải quan và hoàn thành nghĩa vụ thuế. Còn thời điểm hoàn tất thủ tục xuất khẩu hàng hoá là sau khi được xác định là thực xuất. Việc này gây khó khăn cho doanh nghiệp khi thực hiện vì việc xác định các mốc thời gian này còn nhiều lúng túng trong thực tế.
Do vậy, để đảm bảo rõ ràng, dễ thực hiện, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi thời hạn theo hướng “chậm nhất không quá ngày làm việc tiếp theo kể từ ngày hàng hoá qua khu vực giám sát hải quan theo quy định tại Luật Hải quan và các văn bản hướng dẫn thi hành”.