VCCI đưa ra các ý kiến nhằm mục tiêu hoàn thiện hành lang pháp lý, đảm bảo tính khả thi và tạo động lực mạnh mẽ hơn cho doanh nghiệp tham gia thị trường các-bon.
Trên cơ sở tổng hợp ý kiến ban đầu từ cộng đồng doanh nghiệp, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có văn bản góp ý Dự thảo Nghị định quy định về trao đổi quốc tế kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon (Dự thảo). Nhiều nội dung được cho là cần xem xét để phù hợp hơn với thực tiễn phát triển thị trường các-bon cũng như mục tiêu thúc đẩy đầu tư xanh trong giai đoạn tới.

Theo Dự thảo, tỷ lệ tối đa cho phép chuyển giao quốc tế đối với lĩnh vực giao thông xanh là 10%, còn lĩnh vực năng lượng xanh dao động 10–20%. Tuy nhiên, theo phân tích của doanh nghiệp, mức trần này còn thấp và có thể hạn chế khả năng huy động tài chính cho các dự án xanh – vốn đang rất cần nguồn lực.
Thứ nhất, hai nhóm biện pháp nhóm năng lượng và giao thông xanh đóng góp không quá lớn vào mục tiêu giảm phát thải của quốc gia (NDC): nhóm biện pháp giao thông xanh (E24-E26) chỉ chiếm 11,4 triệu tấn, khoảng 2,9% của lĩnh vực năng lượng và gần 1,5% tổng tiềm năng giảm phát thải quốc gia.
Phát triển điện mặt trời tập trung, theo quyết định 2600/QĐ-BCT năm 2024 của Bộ Công Thương (trang 16, mục VIII), đóng góp lượng giảm phát thải 20,18 triệu tấn, tương đương 2,6% lượng giảm phát thải quốc gia trong cả giai đoạn 10 năm. Điện gió trên bờ tiềm năng giảm phát thải 45,59 triệu tấn chiếm 11,9% ngành năng lượng và 5,9% giảm phát thải toàn quốc gia 2021-2030 (tổng 767,09 triệu tấn).
Với tỷ trọng như vậy, việc nâng tỷ lệ trao đổi tín chỉ quốc tế không tạo rủi ro đáng kể cho việc thực hiện NDC, trong khi lại mở ra dư địa tài chính lớn cho doanh nghiệp.
Thứ hai, việc cho phép trao đổi tín chỉ carbon quốc tế có thể giúp gia tăng doanh thu cho các dự án xanh, từ đó thúc đẩy phát triển các dự án này. Chẳng hạn, theo ước tính của doanh nghiệp, mỗi MW điện gió tạo ra giá trị tín chỉ tương đương 2.500-3.000 tCO₂e/năm, với giá tín chỉ quốc tế hiện nay 20-30 USD/tCO₂e, có thể mang lại doanh thu 50.000-90.000 USD/MW/năm. So sánh với giá điện gió 2025 là 1807,4đ/kWh (theo Quyết định số 1508/QĐ-BCT) cho thấy, doanh thu từ tín chỉ carbon sẽ giúp các dự án điện gió tăng doanh thu từ 26,6% đến 40%.
Trong bối cảnh điện gió trên bờ cần tới 1,8 tỷ USD vốn đầu tư và giao thông xanh cần hơn 1,6 tỷ USD, nguồn thu này mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Thứ ba, nhiều quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Indonesia đang áp dụng tỷ lệ chuyển giao quốc tế ở mức rất cao, lên tới 80–100%, nhằm khuyến khích phát triển thị trường các-bon và thu hút dự án xanh.
Thứ tư, bối cảnh quốc tế cho thấy cam kết giảm phát thải toàn cầu đang có xu hướng giãn ra: Mỹ rút khỏi Thỏa thuận Paris, nhiều tổ chức tài chính rời khỏi các liên minh net-zero. Điều này khiến nhu cầu và giá tín chỉ ITMO có thể giảm. Nếu giới hạn quá chặt trong giai đoạn trước 2030, Việt Nam có nguy cơ đánh mất cơ hội thị trường trị giá hàng tỷ USD.
Từ các phân tích trên, VCCI đề nghị nâng tỷ lệ cho phép chuyển nhượng quốc tế đối với tín chỉ các-bon từ các dự án năng lượng tái tạo và giao thông xanh, nhằm vừa đảm bảo mục tiêu NDC, vừa tạo động lực đầu tư mạnh hơn cho khu vực tư nhân.
VCCI cũng cho biết Phụ lục 1 của Dự thảo mô tả chưa đầy đủ về các biện pháp liên quan phương tiện xanh. Trong thực tế, sản xuất phương tiện và cung cấp hạ tầng sạc là điều kiện tiên quyết để chuyển đổi từ phương tiện sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang điện.
Do đó, VCCI kiến nghị bổ sung Mục I.6: “Thay thế xe máy xăng truyền thống bằng xe máy điện, sử dụng pin và sạc thông minh (bao gồm sản xuất, kinh doanh xe máy, cung cấp hạ tầng sạc điện cho xe máy kể trên)”; Mục I.7: “Thay thế ô tô sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang ô tô điện, sử dụng pin và sạc thông minh (bao gồm sản xuất, kinh doanh xe ô tô, cung cấp hạ tầng sạc điện cho ô tô kể trên)”.
Việc mô tả rõ ràng sẽ giúp đảm bảo tính thống nhất và phạm vi áp dụng khi triển khai sau này.
Đáng nói, Dự thảo hiện có nhiều thủ tục hành chính ở các Điều 8.4, 8.8, 9.4, 9.8, 11.7, 12.4, 16.4, 17.3, 17.6, 19.5 và 23.2, trong đó quy định cơ quan thẩm quyền có quyền từ chối hồ sơ và nêu rõ lý do.
Theo VCCI, cần bổ sung cơ chế tạo điều kiện cho doanh nghiệp được khắc phục và bổ sung hồ sơ. Cụ thể, cơ quan thẩm quyền nên thông báo để tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ có thời gian giải trình, bổ sung. Chỉ sau khi hết thời hạn mà hồ sơ vẫn không đáp ứng yêu cầu thì mới từ chối giải quyết. Quy định như vậy sẽ phù hợp với nguyên tắc cải cách hành chính, hỗ trợ doanh nghiệp, tránh phát sinh thêm chi phí tuân thủ.