Thời điểm du lịch bị khủng hoảng ngoài việc chung tay khắc phục thì đây cũng chính là thời gian vàng để các doanh nghiệp tái cơ cấu chuẩn bị cho giai đoạn hậu khủng hoảng…
Cho đến thời điểm này, dịch bệnh COVID-19 đã vượt xa dịch bệnh SARS (2002-2003) và MERS về số ca nhiễm bệnh và chắc chắn cũng sẽ vượt xa về số người chết do dịch. Trong một thời gian rất ngắn, dịch bệnh COVID-19 đã ảnh hưởng lên tất cả các ngành nền kinh tế trong đó du lịch được xem là ảnh hưởng khá nặng nề. Làm thế nào để vượt qua khủng hoảng là câu hỏi được đặt ra lúc này?
Cú sốc lớn ngay đầu năm mới
Trong vòng 3-4 năm trở lại đây, du lịch Việt Nam đã có mức tăng trưởng ngoạn mục thuộc hàng cao nhất thế
giới với mức trung bình trên 20%/năm. Năm 2019 Việt Nam đón lượng khách quốc tế cao kỷ lục từ trước đến nay là hơn 18 triệu lượt khách và đang đặt ra mục tiêu đón khoảng 20,5 triệu lượt khách năm 2020.
Trong 3 tháng đầu năm 2020 dịch COVID-19 có thể làm cho ngành du lịch Việt chịu thiệt hại khoảng 5,9 - 7,7 tỷ USD. - Ông Nguyễn Trùng Khánh, Tổng Cục trưởng Tổng cục du lịch Việt Nam đánh giá
Dịch bệnh COVID-19 thực sự là một cú sốc với ngành du lịch Việt Nam ngay những ngày đầu năm 2020. Kể từ ngày 28/1/2020, chính phủ Trung Quốc đã ra lệnh cấm toàn bộ các hoạt động du lịch nội địa và du lịch nước ngoài gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới những quốc gia đón nhiều khách Trung Quốc như các nước Đông Nam Á, Hàn Quốc, Nhật Bản…
Năm 2019, Việt Nam đón hơn 5,8 triệu lượt khách Trung Quốc, chiếm khoảng 1/3 tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam. Các tỉnh thành đón nhiều khách Trung Quốc bao gồm Nha Trang, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Lào Cai, Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, Phú Quốc…
Ở chiều ngược lại, toàn bộ các tour du lịch từ Việt Nam đi Trung Quốc cũng bị hủy vì dịch bệnh khiến các công ty lữ hành và hàng không đứng trước nguy cơ hủy tour và mất trắng nhiều tỷ đồng. Dịch bệnh cũng khiến du khách lo sợ không dám đi tour trong nước và nước ngoài khiến ngành du lịch thất thu và các công ty du lịch bị thua lỗ lớn trước nguy cơ bị hãng hàng không phạt cọc.
Nếu dịch bệnh kéo dài, nhiều công ty du lịch, khách sạn, hàng không, vận chuyển, nhà hàng, điểm mua sắm du lịch… có thể đứng trước nguy cơ phá sản. Du lịch Việt Nam đứng trước nguy cơ một năm sụt giảm mạnh về lượng khách và doanh thu. Hàng triệu lao động trong ngành du lịch có nguy cơ bị giảm thu nhập thậm trí bị cắt giảm do không có việc.
Quản trị du lịch “lên ngôi”
Vậy trong tình hình khủng hoảng do đại dịch COVID-19 như hiện nay, du lịch Việt Nam cần làm gì? Trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh, Việt Nam đang mất đi thị trường lớn là Trung Quốc. Vì vậy, ngành du lịch cần có hướng đi mới, xác định thị trường nội địa là hướng ưu tiên hàng đầu. Đồng thời có thể xem xét lựa chọn các điểm đến mới, nơi không bị dịch hoặc không có khả năng tái phát dịch như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ và Australia…
Để tạo nên sự hấp dẫn du lịch nội địa, cần có giải pháp đồng bộ từ việc tổ chức các hoạt động kích cầu du lịch nội địa, tổ chức liên kết các nhà cung cấp dịch vụ để hình thành những chương trình du lịch trọn gói với giá ưu đãi cho khách du lịch Việt Nam. Cần đầu tư các tuyến du lịch nội địa mới, chú trọng khai thác du lịch sinh thái cộng đồng, du lịch gắn với bảo vệ môi trường.
Làm sao du lịch trong nước phải có những gói sản phẩm hấp dẫn cạnh tranh được với các sản phẩm du lịch nước ngoài mà các nước đang chào bán thông qua những đại lý của họ tại Việt Nam. Bởi nếu chi phí đi du lịch nước ngoài và du lịch trong nước tương đương nhau thì chắc chắn người dân sẽ có xu hướng chọn đi du lịch nước ngoài.
Một vấn đề nữa là nhân sự ngành du lịch bị đánh giá là vừa yếu và vừa thiếu. Các doanh nghiệp nên tranh thủ để đào tạo nhân sự nội bộ nhằm nâng cao kỹ năng nghiệp vụ, nâng cao năng lực của mỗi nhân viên cũng như hoàn thiện quy trình, phối hợp giữa các bộ phận. Đồng thời, đây là lúc thay đổi phương thức kinh doanh, chuyển đổi thành doanh nghiệp số và áp dụng những công nghệ marketing online tiên tiến hiệu quả.
Công ty du lịch cũng cần nghiên cứu thay đổi định hướng thị trường. Cuộc khủng hoảng với tâm điểm từ thị trường Trung Quốc đã cho thấy hậu quả của việc quá dựa vào 1-2 thị trường lớn của du lịch Việt Nam (Trung Quốc chiếm 1/3 tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam; Trung Quốc và Hàn Quốc chiếm quá nửa tổng số khách quốc tế đến Việt Nam). Khi dịch bệnh qua đi thì thị trường Trung Quốc sẽ cần thêm thời gian để hồi phục. Các doanh nghiệp du lịch Việt Nam cần nghiên cứu thu hút những thị trường mục tiêu tiềm năng khác.
Và từ cái khó khiến du lịch đang “đóng băng”, Việt Nam cũng có thể coi là cơ hội để nhìn lại chính mình và chuẩn bị cho tương lai, trong việc giới thiệu nhiều sản phẩm mới và đa dạng, xây dựng chiến lược quảng bá hình ảnh trực tiếp và sâu rộng ra ngoài quốc tế cũng như ngày một khẳng định, Việt Nam là một trong những nước tiềm năng, giàu bản sắc của khu vực Châu Á.
“Đón sóng” hậu khủng hoảng
Có sóng to thì mới thấy tài năng của người thuyền trưởng. Người làm lãnh đạo phải nắm bắt tình hình và đưa ra những quyết sách đúng đắn phù hợp trong từng thời điểm với doanh nghiệp của mình.
Các công ty du lịch cần phải đồng lòng liên kết với hàng không, vận tải, khách sạn, nhà hàng…để xây dựng những gói kích cầu du lịch nhằm giúp cho du lịch hồi phục nhanh sau giai đoạn khủng hoảng. Các doanh nghiệp có thể tổ chức mời các đối tác, khách hàng lớn tham dự các chuyến FAM trip để giới thiệu các sản phẩm (đã được nâng cấp sau khủng hoảng của doanh nghiệp mình).
Khi khủng hoảng dịch bệnh đã chấm dứt, khách đã quay trở lại, đây là lúc doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động truyền thông tiếp thị và bán hàng. Việt Nam là điểm đến an toàn. Các gói du lịch khuyến mại kích cầu có thể tung ra để kích thích khách sớm đăng ký đi tour.
Ở khía cạnh nhà nước, các cơ quan quản lý có thể đóng vai trò nhạc trưởng để gắn kết các thành phần du lịch, hàng không, khách sạn, nhà hàng, vận chuyển, khu vui chơi giải trí…cùng giảm giá để có sản phẩm tour trọn gói kích cầu du lịch. Nhà nước cũng nên miễn lệ phí visa cho những thị trường trọng điểm, tiềm năng và có mức chi trả cao nhằm thu hút khách từ những thị trường này.
Đồng thời nên có chính sách miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp trong ngành du lịch. Trong và sau đại dịch, thì nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ và bù đắp cho ngành du lịch.
Du lịch là ngành kinh tế dễ bị tổn thương. Không chỉ dịch bệnh mà các khủng hoảng khác liên quan đến khủng bố, xung đột chính trị, suy thoái kinh tế, thiên tai…đều sẽ ảnh hưởng lớn.
Nếu các doanh nghiệp du lịch không hành động và ứng phó ngay từ trong khủng hoảng thì sẽ hạn chế khả năng phục hồi và đón sóng trong tương lai của chính doanh nghiệp mình.