Hiện thực hoá mục tiêu phát triển điện khí LNG theo Quy hoạch điện VIII

DIỄM HẰNG - HẠNH THOẢ - TUẤN NGỌC - PHƯƠNG HIỀN 07/12/2023 14:08

Chiều 07/12, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức chương trình Diễn đàn “Hiện thực hoá mục tiêu phát triển Điện khí LNG theo Quy hoạch Điện VIII”.

Với lợi thế của điện khí là tính sẵn sàng cao, công suất lớn, dải điều chỉnh rộng, thời gian đáp ứng nhanh, giảm thiểu phát thải khí nhà kính CO2, đặc biệt giảm thiểu các khí gây ô nhiễm so với các nhà máy điện chạy than và dầu, việc đẩy mạnh triển khai tiến độ các dự án điện khí và đưa LNG vào sử dụng còn là phù hợp với cam kết của Chính phủ tại COP26 về xu hướng sử dụng nhiên liệu giảm phát thải.

Nhằm góp phần đạt mục tiêu giảm tối đa các nhà máy điện than cũng như phát triển điện khí dần trở thành nguồn cung cấp điện năng quan trọng, đặc biệt chú trọng hướng tới phát triển khí LNG theo Quy hoạch điện VIII, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức Diễn đàn:

HIỆN THỰC HÓA MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN ĐIỆN KHÍ LNG THEO QUY HOẠCH ĐIỆN VIII

Thời gian: Từ 14h00 - 17h00, Thứ Năm ngày 07/12/2023
Địa điểm: Trung tâm Hội nghị 37 Hùng Vương, Ba Đình, Hà Nội

Tham dự Diễn đàn có: Ông Hoàng Quang Phòng - Phó Chủ tịch Liên đoàn thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI); Ông Tô Minh Đương - Phó Giám đốc sở công thương Bạc Liêu; Ông Lê Tiến Dũng, Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Thanh Hóa; Ông Bùi Đức Hạnh - Phó Giám đốc Sở Công Thương Thái Bình; Ông Bùi Tuấn Tự - Phó Trưởng Ban Khu kinh tế Nghi Sơn và các Khu công nghiệp tỉnh Thanh Hóa; Ông Nguyễn Quốc Thập - Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam ; Ông Lã Hồng Kỳ - VP Ban chỉ đạo dự án điện quốc gia; PGS.TS Ngô Trí Long -  chuyên gia kinh tế; Ông Nguyễn Văn Phụng - Nguyên Vụ trưởng quản lý thuế doanh nghiệp lớn (Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính); Ông Vũ Đình Ánh – Chuyên gia kinh tế; Ông Somsak Chutanan - Chuyên gia phát triển dự án năng lượng; Bà Bùi Thị Hồng Vân - Giám đốc Điều hành Công Ty TNHH Angelin Energy. Nhà báo Nguyễn Linh Anh – Phó Tổng biên tập phụ trách Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp.

Tham dự chương trình còn có đại diện các hiệp hội, các doanh nghiệp, cùng các nhà báo/phóng viên của các cơ quan báo chí.

Ban tổ chức xin trân trọng cảm ơn Tổng Công ty Khí Việt Nam - CTCP (PV GAS) đã đồng hành cùng chương trình.

Chương trình được truyền hình trực tuyến trên nền tảng số của Tạp chí DIễn đàn Doanh nghiệp: https://diendandoanhnghiep.vn.

Toàn cảnh Diễn đàn

Toàn cảnh Diễn đàn Hiện thực hoá mục tiêu phát triển điện khí LNG theo Quy hoạch điện VIII.

CẦN SỚM HOÁ GIẢI CÁC THÁCH THỨC

Phát biểu tại Diễn đàn, ông Hoàng Quang Phòng - Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, tại Hội nghị Thượng đỉnh hành động khí hậu thế giới (COP28) đang diễn ra tại Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất, Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong số ít các quốc gia sớm xây dựng và triển khai kế hoạch hành động, nhằm hiện thực hóa các cam kết chống biến đổi khí hậu theo thoả thuận Paris tại hội nghị COP26.

Ông Hoàng Quang Phòng - Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)

Ông Hoàng Quang Phòng - Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)

Trong bài phát biểu quan trọng tại hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phạm Minh Chính nhấn mạnh, Việt Nam đã triển khai hàng loạt giải pháp thực hiện cam kết trên. Trong đó, ban hành Quy hoạch điện VIII, phát triển công nghiệp năng lượng tái tạo, xây dựng hệ sinh thái năng lượng tái tạo là một trong những giải pháp quan trọng và cần thiết.

Có thể thấy, chuyển dịch năng lượng bền vững, giảm mạnh điện than thay thế bằng nguồn điện từ năng lượng tái tạo, điện khí LNG là chủ trương, định hướng quan trọng của Đảng và Nhà nước trong những năm gần đây. Tại Nghị quyết số 55 của Bộ Chính trị ban hành ngày 11/2/2020 về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 định hướng chú trọng phát triển nhanh nhiệt điện khí sử dụng khí hóa lỏng, đưa điện khí dần trở thành nguồn cung cấp điện năng quan trọng, hỗ trợ cho điều tiết hệ thống.

Đồng thời phát triển công nghiệp khí được ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật phục vụ nhập khẩu và tiêu thụ khí hóa lỏng. Quy hoạch Điện VIII đưa ra mục tiêu đưa 13 nhà máy điện khí LNG vào vận hành; chuyển đổi 18 GW điện than vào năm 2030 được thay thế bằng 14 GW điện khí LNG và 12-15 GW nguồn năng lượng tái tạo. Cơ cấu nguồn nhiệt điện khí trong nước và khí hóa lỏng đến năm 2030 sẽ đạt 37.330 MW, tương đương 24,8% tổng công suất nguồn điện, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu nguồn điện.

“Phát triển điện khí LNG góp phần đảm bảo cung cấp điện ổn định cho hệ thống, giảm thiểu phát thải khí nhà kính tác động đến môi trường; là nguồn dự phòng khi tỷ trọng của các nguồn điện năng lượng tái tạo tăng cao trong cơ cấu nguồn, không gặp tình trạng gián đoạn và phụ thuộc vào thiên nhiên như điện gió hay điện mặt trời.

Nhiệt điện khí LNG cũng là giải pháp hạn chế phụ thuộc vào các nhà máy nhiệt điện than vốn chiếm tỉ lệ khá cao trong hệ thống hiện nay; đặc biệt, giúp ngành điện phát triển xanh hơn, góp phần thực hiện cam kết tại hội nghị COP26”, ông Hoàng Quang Phòng nhấn mạnh.

>>Một số giải pháp thúc đẩy ngành điện khí LNG phát triển

Phó Chủ tịch VCCI đánh giá, Việt Nam là quốc gia có nhiều cơ hội thuận lợi cho điện khí LNG. Đây là lĩnh vực thu hút sự quan tâm của nhiều doanh nghiệp và các nhà đầu tư, góp phần thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, hứa hẹn sự phát triển mạnh mẽ thị trường điện khí LNG.

Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội, phát triển điện khí LNG tại Việt Nam đang gặp phải nhiều khó khăn trong hoạch định chính sách, đầu tư, xây dựng, quản lý vận hành... Thứ nhất, hiện nay chúng ta phải nhập khẩu hoàn toàn nhiên liệu này. Hoạt động nhập khẩu cần tuân thủ các thông lệ mua bán LNG quốc tế trong khi Việt Nam chưa có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan đến thiết kế, xây dựng và vận hành các cơ sở hạ tầng phục vụ nhập khẩu cũng như chưa xây dựng hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý cho các dự án LNG.

Thứ hai, chúng ta cũng chưa có kinh nghiệm trong phát triển các chuỗi dự án điện - khí LNG; xây dựng, vận hành các dự án kho cảng LNG có yêu cầu cao về kỹ thuật, tiêu chuẩn an toàn nghiêm ngặt với vốn đầu tư lớn.

Thứ ba, về mặt quy hoạch, các quy hoạch ngành, quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất của các địa phương chưa phù hợp với Quy hoạch Điện VIII có thể làm kéo dài thời gian hoàn thành thủ tục cấp phép đầu tư, tiến độ xây dựng dự án… 

Thứ tư, về phía các doanh nghiệp, đầu tư cho dự án điện khí LNG cần nguồn lực lớn, công nghệ hiện đại nên việc thu xếp vốn cho dự án gặp nhiều thách thức, cần phải đáp ứng yêu cầu của các tổ chức tài chính về các điều kiện bảo lãnh, cam kết để dự án đầu tư có hiệu quả. Trong khi hiện nay, việc phát triển các dự án phải tuân thủ các quy trình đầu tư thông thường cũng như chưa có cơ chế ưu đãi, khuyến khích về thuế, phí để thu hút các nhà đầu tư tham gia phát triển loại hình nguồn điện mới.

“Chúng ta đang bước vào tháng cuối năm 2023. Từ nay đến mốc 2030 để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra Quy hoạch Điện VIII không còn nhiều. Để các dự án khí hóa lỏng triển khai kịp tiến độ rất cần sự chung tay các cấp, các ngành trong việc tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trên. Diễn đàn “Hiện thực hoá mục tiêu phát triển Điện khí LNG theo Quy hoạch Điện VIII” được tổ chức hôm nay cũng không ngoài mong muốn góp thêm tiếng nói để có giải pháp khả thi gỡ khó thúc đẩy phát triển dự án điện khí LNG, góp phần huy động hiệu quả các nguồn lực, nhất là nguồn lực đầu tư tư nhân vào lĩnh vực này trong thời gian tới.

Tôi đề nghị các cơ quan quản lý, các chuyên gia tập trung trao đổi những tiềm năng, cơ hội đầu tư điện khí LNG; nhận diện những khó khăn và thách thức trên cơ sở đó đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện chính sách, cơ chế, tạo môi trường đầu tư ổn định khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các dự án điện khí LNG”, Phó Chủ tịch VCCI Hoàng Quang Phòng nói.

6 NHÓM GIẢI PHÁP HIỆN THỰC HOÁ MỤC TIÊU

Phát biểu tại Diễn đàn, TS. Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu Khí Việt Nam nhấn mạnh, phát triển điện khí LNG vừa qua còn gặp nhiều thách thức.

Thứ nhất, thị tường tiêu thụ điện tăng chậm so với mục tiêu tại quy hoạch điện.

Thứ hai, thiếu khung pháp lý để hoàn thành đàm phán và ký kết các thoả thuận pháp lý, kỹ thuật, thương mại giữa các chủ thể trong chuỗi dự án điện khí LNG.

Thứ ba, thách thức về vấn đề bảo lãnh Chính phủ. Bỏ bảo lãnh Chính phủ nhưng các doanh nghiệp lại chưa có đủ hành lang pháp lý để bảo lãnh thay thế.

Thứ tư, vấn đề bảo lãnh/bảo đảm chuyển đổi ngoại tệ, nội tệ và nghĩa vụ thanh toán quốc tế về nhập khẩu LNG.

Thứ năm, vấn đề ban hành khung giá phát điện cho nhà máy phát điện khí LNG vẫn còn đang nghiên cứu xem xét.

Thứ sáu, vấn đề cam kết tổng sản lượng. Thứ bảy, vấn đề cam kết đường dây truyền tải. Thứ tám là nguy cơ mất kiểm soát tiến độ của dự án.

TS. Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu Khí Việt Nam

TS. Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu Khí Việt Nam

>>>PHÁT TRIỂN ĐIỆN KHÍ LNG: Cần sớm hoá giải các thách thức

Từ những khó khăn kể trên, với trách nhiệm và tư cách của một tổ chức xã hội nghề nghiệp – Hội Dầu khí Việt Nam, Chủ tịch Nguyễn Quốc Thập đề xuất một nhóm các giải pháp nhằm tháo gỡ các vướng mắc khó khăn trong quá trình hiện thực hóa mục tiêu điện khí LNG trong QH Điện VIII.

Cụ thể, nhóm giải pháp thứ nhất là mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ điện khí LNG theo sát với mục tiêu cung cấp khí điện LNG trong Quy hoạch Điện VIII.

Đó là, xây dựng tập trung, đồng bộ các khu Công nghiệp/nhà máy có quy mô tiêu thụ điện đủ lớn cùng với việc triển khai các dự án kho cảng và nhà máy điện khí LNG.

“Chính họ là các hộ tiêu thụ và là cơ sở quan trọng cam kết tiêu thụ điện (Qc) và khi đó, các cam kết trong Hợp đồng mua bán điện sẽ trở nên dễ dàng và thuận lợi hơn. Đây cũng là chính sách giúp thu hút và khuyến khích các nhà đầu tư các loại hình khu công nghiệp/nhà máy cam kết tiêu thụ điện dài hạn cùng với chuỗi nhà máy điện và kho cảng LNG. Thêm vào đó, chúng ta cần có thêm các chính sách kích cầu về điện, kích thích sản xuất và kích thích tiêu dùng song song với khuyến khích tiết kiệm điện”, ông Nguyễn Quốc Thập nhấn mạnh.

Hội Dầu khí Việt Nam đề xuất sáu nhóm các giải pháp nhằm tháo gỡ các vướng mắc khó khăn trong quá trình hiện thực hóa mục tiêu điện khí LNG trong QH Điện VIII.

Hội Dầu khí Việt Nam đề xuất 6 nhóm các giải pháp nhằm tháo gỡ các vướng mắc khó khăn trong quá trình hiện thực hóa mục tiêu điện khí LNG trong Quy hoạch Điện VIII.

Nhóm giải pháp thứ hai là sớm sửa đổi các Bộ Luật Điện lực, Luật BVMT, Luật Thuế và các Bộ Luật, Nghị định hướng dẫn liên quan.

Trước tiên và quan trọng nhất đó là cần phải chấp nhận chuỗi kinh doanh khí điện LNG hoạt động theo cơ chế thị trường và các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ thực hiện việc giám sát và hậu kiểm mọi quá trình hoạt động của chuỗi.

Tiếp đó, cho phép các chủ thể các nhà máy điện khí được quyền đàm phán bán điện một cách cạnh tranh giữa EVN và các hộ tiêu thụ điện.

Đồng thời, cho phép các nhà máy điện được quyền mua trực tiếp LNG và thuê kho cảng tàng trữ và tái hóa khí của kho cảng LNG. Song song, với quá trình đó cần bổ sung khung thuế và phí phát thải CO2 trong Luật Thuế và Luật BVMT.

Nhóm giải pháp thứ ba ông Thập đưa ra là cập nhật và sửa đổi Điều lệ và Quy chế tài chính của PVN và EVN.

“Việc Chính phủ không còn trực tiếp đứng ra bảo lãnh các Hợp đồng mua bán khí và mua bán điện là một quyết sách đúng, tuy nhiên với khung pháp lý hiện tại PVN và EVN không đủ cơ sở để thực hiện bảo lãnh thay thế”, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam đánh giá.

Đồng thời cho rằng, cần phải cập nhật và sửa đổi Điều lệ và Quy chế tài chính liên quan đến quyền cam kết và thế chấp tài sản hay dòng tiền của hai Tập đoàn đã và đang tham gia vào chuỗi các dự án điện khí LNG nói riêng và các chuỗi dự án lớn khác nói chung. Khi đó, nút thắt về bảo lãnh Chính phủ sẽ được tháo gỡ.

Các ý kiến nhấn mạnh cho phép các chủ thể các nhà máy điện khí được quyền đàm phán bán điện một cách cạnh tranh giữa EVN và các hộ tiêu thụ điện.

Các ý kiến nhấn mạnh cho phép các chủ thể các nhà máy điện khí được quyền đàm phán bán điện một cách cạnh tranh giữa EVN và các hộ tiêu thụ điện.

Nhóm giải pháp thứ tư, Chính phủ hoặc Ngân hành Nhà nước vẫn cần cam kết và đảm bảo về khối lượng chuyển đổi ngoại tệ/nội tệ và tỷ giá sẽ do thị trường quyết định.

“Nhà đầu tư sẽ hoàn toàn được thuyết phục nếu chúng ta chấp nhận cách tiếp cận này và nút thắt cũng sẽ được tháo gỡ”, TS Nguyễn Quốc Thập khẳng định.

Nhóm giải pháp thứ năm là tăng cường và mở rộng Hợp tác Quốc tế. Theo Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam, hợp tác quốc tế sâu rộng sẽ giúp chúng ta có cơ hội để xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách năng lượng nói chung và điện khí LNG nói riêng. Đồng thời xây dựng và hoàn thiện mô hình quản trị đầu tư xây dựng, vận hành, khai thác sử dụng hiệu quả tối ưu điện khí LNG.

Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế sâu rộng cũng giúp lựa chọn được các nhà đầu tư có tiềm lực về công nghệ, tài chính và kinh nghiệm triển khai. “Chúng tôi cho rằng, hợp tác 1uốc tế tốt và hiệu quả sẽ là một trong các điều kiện cần và đủ để hiện thực hóa các dự án khí điện LNG theo Quy hoạch Điện VIII”, TS Nguyễn Quốc Thập nhận định,

Nhóm giải pháp thứ sáu là thay đổi nhận thức và tư duy. Với một loại hình kinh doanh mới, ông Thập cho rằng cần có cách tiếp cận mới, phù hợp và khả thi.

Điện khí LNG không phải chỉ có nhà máy điện và kho cảng LNG, mà điện khí LNG cần được hấp thụ hay tiêu thụ bởi các hộ tiêu thụ điện công nghiệp đó là các khu công nghiệp hay các nhà máy chế biến và nói rộng hơn là nền kinh tế.

“Nhận thức về giá điện khí LNG cũng cần phải thay đổi và như đã đề cập ở trên, giá điện khí LNG bắt buộc phải theo cơ chế thị trường vì trọng số trong cấu thành giá điện khí LNG chủ yếu là giá LNG nhập khẩu”, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam khẳng định.

Đồng thời cho rằng, muốn có giá LNG tốt thì chúng ta phải có các cam kết dài hạn, và muốn cam kết mua và bán khí LNG dài hạn thì cũng phải có cam kết dài hạn từ nhà máy điện, rồi nhà máy điện muốn cam kết được thì cũng phụ thuộc vào khách hàng của họ có cam kết mua điện dài hạn hay không? Bởi các nước nhập khẩu LNG và kinh doanh khí điện LNG đều đã thành công với những mức độ nhau và họ vẫn đang mở rộng quy mô. Các nhà đầu tư đầu cuối (tiêu thụ điện khí LNG) ở những nơi đó vẫn tiếp tục đầu tư, và tạo thành một chuỗi giá trị và liên hoàn. Từ những kinh nghiệm đó, Chủ tịch Hội Dầu khí cho rằng các cam kết dài hạn, hợp tác quốc tế và thị trường là những điều kiện tiên quyết hay điều kiện cần và đủ để hiện thực hóa các dự án khí điện theo Quy hoạch Điện VIII và Quy hoạch Năng lượng Quốc gia.

>>PHÁT TRIỂN ĐIỆN KHÍ LNG: Cần khung giá cho phát điện

PHÁT TRIỂN ĐIỆN KHÍ LNG Ở VIỆT NAM

Điều hành phiên toạ đàm, Nhà báo Nguyễn Linh Anh – Phó Tổng Biên tập phụ trách Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp cho biết: từ những thách thức trong phát triển điện khí LNG và các nhóm giải pháp tháo gỡ khó khăn đã được lãnh đạo Hội Dầu khí Việt Nam đề cập, các chuyên gia trong ngành điện, chuyên gia kinh tế và đại diện doanh nghiệp sẽ đi sâu phân tích những điểm nghẽn; đề xuất các giải pháp; chia sẻ bài học kinh nghiệm, thông lệ quốc tế trong phát triển điện khí LNG tại các nước trên thế giới và trong khu vực.

ff

Nhà báo Nguyễn Linh Anh - Phó Tổng Biên tập phụ trách Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp

Chuyển dịch cơ cấu nguồn điện và vai trò của điện khí LNG

Tham gia phiên toạ đàm, chuyên gia Lã Hồng Kỳ - Văn phòng Ban chỉ đạo dự án điện quốc gia nhấn mạnh: chuyển đổi năng lượng, thay thế các nguồn năng lượng truyền thống gây ô nhiễm sang các nguồn năng lượng sạch là xu hướng diễn ra ở nhiều quốc gia. Tuỳ theo vị trí địa lý, điều kiện kinh tế, mỗi quốc gia có chính sách chuyển đổi nguồn điện hợp lý, đảm bảo an ninh năng lượng.

Tại Việt Nam, chuyên gia Lã Hồng Kỳ cho rằng, có thể chuyển đổi năng lượng sang điện gió, điện mặt trời, điện khí… - những nguồn năng lượng sạch và tốt nhằm đảm bảo an ninh năng lượng trong tất cả tình huống và trong tất cả điều kiện thời tiết…

Trong đó, phát triển điện khí LNG theo Quy hoạch điện VIII trong giai đoạn 2030, các nhà máy điện thuộc chuỗi điện khí Cá Voi Xanh lô B là nguồn điện chính cung cấp bổ sung cho lưới điện quốc gia ở khu vực miền Trung và miền Nam; ở miền Bắc bổ sung 4 dự án LNG với tổng công suất khoảng 6.000 MW để chạy nền và đảm bảo truyền tải đường dây 500kW.Danh mục nhà máy điện khí lô B gồm các cụm nhà máy Ô Môn 1, Ô Môn 2, Ô Môn 3; Ô Môn 2, Ô Môn 3, Ô Môn 4 với công suất hơn 3.100 MW.

chuyên gia Lã Hồng Kỳ - Văn phòng Ban chỉ đạo dự án điện quốc gia

Chuyên gia Lã Hồng Kỳ - Văn phòng Ban chỉ đạo dự án điện quốc gia

Theo đánh giá đến cuối năm 2026 có dòng khí đầu tiên nhưng hiện đang có một số vướng mắc cần tháo gỡ để có quyết định đầu tư, trong đó, các hợp đồng mua bán điện đang trong quá trình đàm phán.Thứ hai, chuỗi dự án sử dụng khí Cá Voi Xanh gồm nhà máy Dung Quất 1, Dung Quất 2, Dung Quất 3; miền Trung 1, miền Trung 2 với tổng công suất 3.750 KW, hiện nay tiến độ đang chậm và khả năng cuối năm 2028 có dòng khí đầu tiên.

Đối với 11 dự án LNG nhập khẩu với tổng công suất 17.900 MW theo Quy hoạch Điện VII điều chỉnh và 8 nhà máy theo Quy hoạch Điện VIII bổ sung, hiện nay danh mục tiến độ các nguồn điện quan trọng, có 3 dự án nhà máy điện khí là Nhơn Trạch 3,4, Hiệp Phước giai đoạn 1 sẽ phát điện trong giai đoạn 2021 - 2025 nhưng thực tế đang gặp khó.

Đồng tình với các chuyên gia về những khó khăn, vướng mắc, chuyên gia Lã Hồng Kỳ cho rằng, ngoài vướng mắc chung thường thấy trong các dự án, các dự án điện khí có vướng mắc đặc thù riêng.

Thứ nhất, đảm bảo triển khai tiến độ đồng bộ cả về kỹ thuật và hiệu quả đầu tư cho dự án và chuỗi dự án (bao gồm các dự án thành phần trong chuỗi như phát triển mỏ khí tự nhiên, nhập khẩu khí, vận chuyển, bồn chứa…).

Kết quả dự án thành phần phụ thuộc nhiều yếu tố, có lường trước có thể gây e ngại cho các nhà đầu tư. Thời gian thực hiện dự án dài gồm nhiều chủ đầu tư trong và nước ngoài, chịu điều chỉnh của nhiều luật liên quan… khó lường trước vướng mắc.

Thứ hai, đảm bảo lợi ích các bên tham gia đầu tư. Việc phân bổ khí, trong đó có cả phân bổ khối lượng khí cho đầu dự án của các nhà máy điện hạ nguồn, trách nhiệm tìm nguồn nhiên liệu khí thay thế của các nhà máy hạ nguồn khi mỏ khí vào giai đoạn suy giảm. Sản phẩm cuối của chuỗi dự án thường là điện thương phẩm bán cho các hộ tiêu thụ thể hiện qua giá bán điện, cần có cơ chế đảm bảo hài hoà lợi ích của các bên.Thứ ba, về cơ chế chính sách.

Hiện kế hoạch thực hiện Quy hoạch Điện VIII chưa được phê duyệt ảnh hưởng đến việc đôn đốc, theo dõi tiến độ thi công xây dựng đối với truyền tải… Các khung giá phát điện gặp khó khăn trong đàm phán hợp đồng mua bán điện.

Thứ tư, đàm phán tiêu thụ mua bán khí LNG, hiện giá cao cần có chính sách chuyển ngang toàn diện từ hợp đồng mua bán khí sang hợp đồng mua bán điện, chưa giải quyết vấn đề mấu chốt trong khung pháp lý nên ảnh hưởng đến các dự án.

“Để dự án khí triển khai đúng tiến độ, ngoài việc xác định cơ cấu nguồn điện phù hợp, cần có cơ chế chính sách giải quyết khó khăn trên, đòi hỏi quyết tâm cao của Chính phủ, các cơ quan hoạch định chính sách và tham vấn của nhà khoa học, doanh nghiệp” – ông Lã Hồng Kỳ nhấn mạnh.

Cần khung giá cho phát điện

Thông tin tại Diễn đàn, PGS.TS Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế cho biết, phát triển điện khí LNG được xác định là giải pháp “xanh” trong chuyển dịch năng lượng bền vững tại nước ta, tuy nhiên, nguồn điện này cũng đang gặp phải không ít thách thức để phát triển.

Theo ông Long, tiêu thụ khí của điện rất thấp, năm sau thấp hơn năm trước khi điện khí thường xuyên không được ưu tiên huy động. Năm 2023, dự kiến tiêu thụ khí của điện giảm khoảng 18% so với năm 2022 và được dự báo tiếp tục giảm trong năm 2024, ảnh hưởng đến sản xuất, đưa khí về bờ. Tổng lượng khí về bờ của PV GAS trong năm 2024 dự báo chỉ khoảng 6,3 tỷ m3, thấp hơn nhiều so với mức dự kiến 7,7 tỷ m3 của năm 2023. Cùng với đó, các cơ chế để cung cấp LNG cho điện hết sức khó khăn, dự báo trong năm 2024 vẫn chưa thể bán được LNG cho điện…

PGS.TS Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế

PGS.TS Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế.

Khuôn khổ pháp lý hiện hành cho các dự án LNG cho điện ở Việt Nam vẫn chưa được xây dựng hoàn chỉnh… Đặc biệt, thách thức lớn nhất là đàm phán Hợp đồng mua bán điện (PPA), việc đàm phán PPA phải thực hiện theo đúng quy định của Bộ Công Thương. 

Theo đó, chủ đầu tư sẽ phải đàm phán mua bán điện với EVN dựa trên chi phí đầu tư nhà máy, giá khí cho phát điện, lợi nhuận cho phép… (trong khung giá phát điện do Bộ Công Thương ban hành). Chi phí cao, vì là nguồn khí an toàn, được nhiều quốc gia sử dụng nên giá LNG cũng khá cao. Việt Nam không chủ động được nguồn cấp LNG do phải nhập khẩu 100% loại nhiên liệu này.

Cũng theo ông Long, trong bối cảnh địa chính trị thế giới có nhiều thay đổi, giá LNG biến động thất thường và vì thường chiếm tỉ lệ từ 70-80% giá thành điện năng sản xuất, nên việc xây dựng cơ chế giá phù hợp để thích nghi với những thay đổi giá nhiên liệu nhưng không tác động quá lớn tới giá bán lẻ điện là thách thức rất lớn với Việt Nam.

Giá khí hoá lỏng LNG đã tăng rất mạnh thời gian qua, giá nhập khẩu cao là trở ngại trong tương lai khi ký các hợp đồng mua bán điện giữa chủ đầu tư và EVN, do EVN phải mua điện giá cao và bán điện giá rẻ. Giá phát điện LNG cao hơn so với các nguồn điện khác nên gặp khó khăn trong tham gia thị trường điện và đảm bảo hiệu quả đầu tư.

Chưa có khung giá phát điện cho nhà máy phát điện khí LNG, cam kết tổng sản lượng điện mua hàng năm, chưa có cam kết bao tiêu sản lượng khí hàng năm, cam kết về hệ thống truyền tải và đấu nối của dự án…

Vì vậy, để hiện thực hóa mục tiêu phát triển nhiệt điện khí theo quy hoạch điện VIII, thúc đẩy sự phát triển thị trường khí LNG cạnh tranh, hiệu quả, PGS.TS Ngô Trí Long cho rằng, cần quy hoạch tổng thể, có chiến lược dài hơn để các doanh nghiệp chủ động, không phải chạy theo.

“Các doanh nghiệp bao giờ cũng hướng tới lợi ích và mong muốn thị trường phải được phát triển lành mạnh, đảm bảo tính công bằng. Do đó, phát triển điện khí phải theo cơ chế thị trường, dưới sự điều tiết của nhà nước”, ông Long bày tỏ.

Giải pháp về thuế và phí

Ông Nguyễn Văn Phụng, Chuyên gia cao cấp về Thuế và Quản trị Doanh nghiệp cho biết: “Cần khẳng định rõ điện khí LNG phải thực hiện theo cơ chế giá thị trường, không có chuyện áp mức giá thấp để bảo đảm khung giá điện thấp đi”.

Theo ông Phụng, việc phát triển điện khí LNG tại Việt Nam trong thời gian tới là vấn đề không cần phải tranh luận, bàn cãi nhiều về sự cần thiết hay tính cấp bách. Vấn đề là hãy bàn luận về các giải pháp chính sách cũng như các công việc cần phải làm để thực hiện nó.

Trong đó, việc phát triển điện khí LNG hiện nay đang gặp phải những thách thức lớn như: Thứ nhất, bản thân các dự án điện khí LNG gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp cả về công nghệ, yêu cầu cao về kỹ thuật, suất đầu tư lớn, quy trình sản xuất kinh doanh chứa đựng nhiều công đoạn rủi ro và mức độ rủi ro cao hơn các dựa án điện truyền thống, giá thành sản xuất cao.

Ông Nguyễn Văn Phụng, Chuyên gia cao cấp về Thuế và Quản trị Doanh nghiệp

Ông Nguyễn Văn Phụng, Chuyên gia cao cấp về Thuế và Quản trị Doanh nghiệp

Thứ hai, cơ chế đàm phán giá điện với EVN đang thực hiện theo quy định của Bộ Công thương, (cho dù dựa trên các yếu tố trong cơ cấu hình thành giá điện như chi phí đầu tư nhà máy điện, giá khí cho sản xuất điện, lợi nhuận cho phép, nhưng vẫn phải tuân thủ khung giá quy định), trong khi đó giá khí LNG trên thị trường có biên độ thay đổi rất lớn.

Thứ ba, chưa có khung giá phát điện cho nhà máy phát điện khí LNG cũng như các cam kết sản lượng điện mua hàng năm (do giá thành điện khí LNG cao hơn các nguồn điện khác), chưa có cam kết bao tiêu sản lượng khí hàng năm, cam kết về hệ thống truyền tải và đấu nối điện của dự án,…

Thứ tư, hệ thống cơ sở hạ tầng cảng, phương tiện vận chuyển và kho chứa LNG đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn, đang trong giai đoạn lập kế hoạch cảng; trong khi đó, chúng ta chưa có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan đến thiết kế, xây dựng, vận hành các cơ sở hạ tầng phục vụ nhập khẩu, kho chứa LNG; chưa có kinh nghiệm trong phát triển chuỗi dự án điện – khí LNG, trong xây dựng và vận hành các dự án kho cảng LNG và tham gia vào thị trường LNG thế giới.

Thứ năm, nhiều vấn đề chưa được xem xét, thống nhất phương thức giải quyết như bỏ quy định về bảo lãnh chính phủ đối với các dự án điện nhưng chưa có hành lang pháp lý để có các biện pháp thay thế, cơ chế tài chính đối với các tập đoàn kinh tế có vốn nhà nước có khả năng tham gia đầu tư, cơ chế cho các cam kết dài hạn của các bên trong chuỗi giá trị sản xuất – truyền tải – phân phối – sử dụng điện khí LNG để đạt hiệu quả cao nhất.

“Tôi đồng tình với những nhận định của các chuyên gia về những thách thức đang đặt ra đối với phát triển điện khí LNG ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, những thách thức đó không thể không giải quyết được nếu như chúng ta có nhận thức đầy đủ, tòan diện, có sự thay đổi tư duy về giá điện trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và quan trọng hơn là sự quyết tâm cao của các nhà đầu tư, các cơ quan quản lý nhà nước trong việc cùng nhau phối hợp, cộng tác để tháo gỡ các nút thắt, các vướng về chính sách, về quản lý thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình”, ông Nguyễn Văn Phụng nói.

>>Khơi thông nguồn lực cho điện khí LNG: Cơ chế đặc thù cho điện khí LNG

Theo vị chuyên gia, về một số giải pháp kiến nghị, chúng ta có 6 nhóm giải pháp kiến nghị rất thiết thực, đó là: Mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ điện khí LNG; Sớm sửa đổi các bộ luật về Điện lực, Bảo vệ môi trường, các luật thuế; Cập nhật và sửa đổi Điều lệ và Quý chế tài chính của PVN và EVN khi Chính phủ thay đổi cơ chế bảo lãnh: Cần cam kết và đảm bảo về khối lượng chuyển đổi ngoại tệ/nội tệ nhưng tỷ giá do thị trường quyết định; Tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế trong hiện thực hóa mục tiêu điện khí LNG; và Thay đổi nhận thức và tư duy về điện LNG, có cách tiếp cận mới trong cả chuỗi từ đầu tư nhà máy, cung ứng n nhiên liệu, hạ tầng kho, cảng, vận chuyển, hộ tiêu thụ điện, và giá điện khí bắt buộc phải theo cơ chế giá thị trường.

Theo quan điểm cá nhân, ông Nguyễn Văn Phụng đưa ra một số kiến nghị về chính sách và cơ chế quản lý giá, thuế, phí và lệ phí có liên quan đến chủ đề thúc đẩy phát triển điện khí LNG như sau:

Một là, về cơ chế giá điện: Theo quy định của Luật Giá (Luật số 16/2023/QH15 ngày 19/6/2023, hiệu lực từ 01/7/2024) thì giá bán điện thuộc Phụ lục 2 – Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, và thực hiện theo quy định của pháp luật về điện lực.

Theo Luật Điện lực hiện hành (Luật số  28/2004/QH11 ngày 03/12/2004, đã được sửa đổi, bổ sung một số điều tại các năm 2012, 2018 và 2022) thì giá bán điện được quy định tại Điều 31 và Điều 62 của Luật này. Trong đó, giá bán lẻ điện được xây dựng căn cứ khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân, cơ chế điều chỉnh giá và cơ cấu biểu giá bán lẻ điện do Thủ tướng Chính phủ quy định phù hợp với cấp độ phát triển của thị trường điện lực.

Riêng trường hợp ở khu vực nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo nơi chưa nối lưới điện quốc gia thì giá bán lẻ điện sinh hoạt do đơn vị điện lực có liên quan xây dựng, UBND cấp tỉnh quyết định phù hợp với cơ chế hỗ trợ giá bán lẻ điện cho mục đích sinh hoạt tại khu vực này do Thủ tướng Chính phủ quy định.

Đối với khung giá phát điện, khung giá bán buôn điện, giá truyền tải điện, giá dịch vụ phụ trợ hệ thống điện, phí điều độ vận hành hệ thống điện và phí điều hành giao dịch thị trường điện lực do đơn vị điện lực có liên quan xây dựng; cơ quan điều tiết điện lực thẩm định trình Bộ trưởng Bộ Công Thương, Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt theo sự phân công của Chính phủ.  Giá phát điện theo hợp đồng mua bán điện có thời hạn (trong đó có các Hợp đồng mua bán điện khí LNG), giá bán buôn điện do các đơn vị điện lực thỏa thuận nhưng không được vượt quá khung giá phát điện, khung giá bán buôn điện đã được phê duyệt.

“Với các quy định pháp luật nêu trên, ngoài các ý kiến đề xuất mà các tham luận trước đã nêu ra, tôi cho rằng cần phải thống nhất cách hiểu và kiên quyết thực hiện 2 nội dung sau: Khẳng định rõ điện khí LNG dứt khoát phải thực hiện theo cơ chế giá thị trường, không có chuyện áp mức giá thấp để bảo đảm khung giá điện thấp đi.

Cần phải loại bỏ tư duy lâu nay “các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang sử dụng để sản xuất ra điện như là than, là nắng, là gió, là khí, là dầu, là thủy điện,… thuộc quyền sở hữu toàn dân, cho nên điện sinh hoạt của người dân phải để mức thấp nhất, thậm chí Nhà nước phải bù cho dân”, thay đổi được tư duy này, chúng ta mới có cơ hội xóa bỏ tương quan bất hợp lý trong giá điện sinh hoạt lâu nay”, ông Phụng gợi ý.

Đối với điện khí LNG, ông Phụng cho rằng, thực tế hiện nay đã cho thấy giá thành sản xuất điện từ khí LNG chắc chắn cao hơn nhiều so với điện được sản xuất ra từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên than, nắng, gió, thủy điện. Do vậy, rất cần phải có một khung giá điện cho nguồn điện này được xấy dựng trên phương pháp khoa học, có tham khảo thực tiễn kinh nghiệm ở một số quốc gia đã và đang áp dụng thực hiện tốt.

Khung giá, mức giá cụ thể cần được xây dựng trên các yếu tố cấu thành giá điện khí LNG (như chi phí đầu tư nhà máy điện, chi phí vận hành tiêu chuẩn, giá LNG  tại một thời điểm xác định là cơ sở), hệ số điều chỉnh theo thị trường khi có biến động giá LNG. Mức giá LNG luôn có những biến động, thay đổi lớn trên thị trường quốc tế vốn chịu tác động của rất nhiều yếu tố, nhưng do LNG chiếm cấu phần lớn trong giá thành điện nên hệ số điều chỉnh sẽ cho phép xử lý các biến động này, bảo đảm được quyền lợi của các bên trong thị trường điện khí LNG.

Theo chuyên gia, cần khẳng định rõ điện khí LNG phải thực hiện theo cơ chế giá thị trường, không có chuyện áp mức giá thấp để bảo đảm khung giá điện thấp đi

Theo chuyên gia, cần khẳng định rõ điện khí LNG phải thực hiện theo cơ chế giá thị trường, không có chuyện áp mức giá thấp để bảo đảm khung giá điện thấp đi

>>PHÁT TRIỂN ĐIỆN KHÍ LNG: Sáu nhóm giải pháp hiện thực hoá mục tiêu

Chuyên gia cao cấp về Thuế ông Nguyễn Văn Phụng nhấn mạnh, qua rà soát hệ thống pháp luật, chính sách thuế hiện hành của Việt Nam cho thấy chúng ta đã có 9 sắc thuế chính  cùng với một số khoản phí, lệ phí và khoản thu khác của ngân sách nhà nước (NSNN).

Liên quan đến yêu cầu khuyến khích, thúc đẩy đầu tư phát triển thị trường điện khí LNG, một số quy định về áp thuế, khí cũng như các ưu đãi về thuế cần được nghiên cứu, điều chỉnh theo hướng sau:

Thuế nhập khẩu LNG: Hiện hành, biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ưu đãi (có hiệu lực từ ngày 15/7/2023), có quy định dầu mỏ, các loại khoáng chất có nguồn gốc từ dầu mỏ thuộc Chương 27 và khí hóa lỏng LNG thuộc nhóm ngành 2710 và 2711 với mức thuế suất 5%. Việc giảm thuế nhập khẩu có tác động giúp giảm thấp giá thành điện do sử dụng nhiên liệu LNG. Do vậy, xin đề xuất chuyển xuống áp dụng mức thuế suất thấp nhất trong Biểu khung thuế nhập khẩu là 0%.

Thuế giá trị gia tăng (GTGT): Đây là loại thuế gián thu do người tiêu dùng chịu, nhà nhập khẩu, doanh nghiệp sản xuất có trách nhiệm tính vào giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Trong suốt quá trình luân chuyển từ nhập khẩu nhiên liệu, sản xuất, truyền tải, phân phối, cung ứng và bán lẻ điện tiêu dùng thì thuế GTGT không ảnh hưởng đến giá thành, chiphis sản xuất kinh doanh. Do vậy, không nên đặt vấn đề áp dụng mức thuế suất thuế GTGT khác biệt với mức thuế suất phổ thông (10%) đang áp dụng ổn định và phù hợp lâu nay.

Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN): Đây là sắc thuế có tác động trực triếp đến kết quả kinh doanh, hiệu quả đầu tư và thời gian thu hồi vốn của nhà đầu tư bởi có các quy định ưu đãi thuế. Luật thuế TNDN hiện hành (đã cập nhật các nội dung được sửa đổi, bổ sung vào năm 2013, 2014, 2016) có quy định mức ưu đãi thuế rất cao cho các dự án điện, trong đó có điện LNG.  

Theo đó, dự án đầu tư, xây dựng, vận hành nhà máy điện (không phân biệt nguồn nhiên liệu sử dụng) thuộc diện áp dụng thuế suất ưu đãi 10% trong thời hạn 15 năm, kể từ khi đi vào hoạt động; được miễn thuế tối đa 4 năm, kể từ khi có lãi (sau 3 năm hoạt động), và giảm tối đa 50% thuế TNDN trong 9 năm tiếp theo.

Đối với dự án nhà máy điện có quy mô vốn đầu tư lớn, hoặc áp dụng công nghệ cao, công nghệ sạch thì có thể được kéo dài thêm thời gian hưởng thuế suất ưu đãi nhưng tổng thời gian áp dụng thuế suất 10% không quá 30 năm. Thủ tướng Chính phủ quyết định việc kéo dài thêm thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi 10% quy định tại Khoản này theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính.

Tuy nhiên, quy định về ưu đãi thuế cao như mức nêu trên sẽ được điều chỉnh lại theo Nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp Thứ 6 vừa qua về Thuế TNDN bổ sung để thực hiện cam kết thuế suất thuế tối thiểu toàn cầu. Mức thuế suất 10% cũng sẽ được trình thay đổi theo Dự án xây dựng Luật thuế TNDN sửa đổi vào năm 2024 tới đây.

Để có thể hiện thực mục tiêu phát triển điện khí LNG theo Quy hoạch điện VIII, chúng ta cần điều chỉnh lại ưu đãi thuế TNDN trong thời gian tới như sau:

Một là, điều chỉnh mức thuế suất ưu đãi từ 10% lên mức 15%, điều chỉnh các mức thời gian ưu đãi miễn, giảm thuế để bảo đảm mức thuế suất thực tế không thấp hơn mức thuế suất tối thiểu toàn cầu là 15%.

Hai là, rà soát và đưa ra khỏi danh mục dự án ưu đãi thuế ở mức cao đối với dư án nhiệt điện than, thậm chí bỏ cả ưu đãi thuế đối với các dự án thủy điện. Bởi vì, trong gai đoạn hiện nay, đã có rất nhiều ý kiến đề nghị xem xét lại bởi tác động nhiều mặt của thủy điện đối với kinh tế, xã hội, với thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng, phát triển vùng miền, sinh kế của người dân là không nhỏ. Như vậy, ưu đãi thuê đối với dự án điện chỉ còn lại áp dụng đối với điện gió, điện mặt trời và điện khí LNG.

“Về các loại thuế, phí và lệ phí khác, tôi cho rằng cần rà soát tổng thể các loại thuế, phí và lệ phí đối với tài nguyên, môi trường để bảo đảm nguyên tắc tránh thu trùng lắp, ảnh hưởng đến sức chịu đựng của doanh nghiệp và người dân, đồng thời điều tiết đúng và trúng vào các đối tượng gây tác động xấu đến môi trường. Đó là:

Thuế bảo vệ môi trường đối với các loại than (dùng cho nhiều mục đích, trong đó có nhiệt điện than), đề nghị rà soát lại mức thu. Bên cạnh đó có thể mở rộng diện áp dụng, đồng thời với việc chuyển đổi tên thuế bảo vệ môi trường sang tên gọi khác là thuế đối với các chất và hoạt động gây ô nhiễm để thực hiên mục tiêu cụ thể và sát thực tế là đối tượng nào gây ra ô nhiễm phải trả thuế/phí do việc phát thải ra ô nhiễm.

Cùng với thuế bảo vệ môi trường cần có thay đổi như trên, xin đề xuất cần nghiên cứu để áp dụng cơ chế mới về thu thuế/phí/giá đối với khí thải carbon, đồng thời với việc xây dựng và vận hành thị trường phát thải. Nếu cơ chế này được nghiên cứu và triển khai áp dụng, chúng ta sẽ đạt được mục tiêu kép, vừa tạo nguồn thu NSNN (trên cả cả 2 phương diện về quy mô và thay đổi cơ cấu thu), vừa tạo sự công bằng và tác động thay đổi hành vi đối với môi trường”, ông Nguyễn Văn Phụng đề xuất.

Tháo gỡ “điểm nghẽn” cơ chế và giá

Ông Vũ Đình Ánh, Chuyên gia kinh tế nhấn mạnh, cần nhiều nguồn lực để thực hiện, bao gồm cả nguồn lực cứng và mềm. Thị trường LNG cần vận hành theo cơ chế thị trường.Chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh cho rằng, vấn đề quy hoạch để phát triển điện khí LNG cần được quan tâm. Quy hoạch về phát triển điện khí cần phải đặt trong bối cảnh chung đó của thế giới và khu vực. 

Ông Vũ Đình Ánh, Chuyên gia kinh tế

Ông Vũ Đình Ánh, Chuyên gia kinh tế

Ông Ánh cũng cho rằng “Chúng ta nói đến giá thì do thị trường. Nhưng giá thị trường chỉ có khi chúng ta có thị trường. Do đó phải nhìn lại từng thành phần cấu thành giá thị trường bao gồm cả giá nhập khẩu sản phẩm LNG, giá bán điện LNG…”.

Cũng theo chuyên gia Vũ Đình Ánh, mấu chốt là phải vận hành theo cơ chế thị trường, cạnh tranh với cả khu vực. Thị trường điện khí cũng không ngoại lệ, do đó, mọi quy hoạch, kiến nghị về điện khí tôi cho rằng cũng cần phải đặt trong bối cảnh chung, phải lường trước được những biến động nếu có trong tương lai.

Ông Tô Minh Đương - Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Bạc Liêu cho biết, là tỉnh ven biển ĐBSCL, Bạc Liêu có lợi thế phát triển năng lượng nói chung, trong đó có điện khí. Để phát huy lợi thế, tỉnh xác định năng lượng tái tạo là một trong 5 trụ cột phát triển kinh tế của Tỉnh thời gian tới. 

Ông Tô Minh Đương - Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Bạc Liêu

Ông Tô Minh Đương - Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Bạc Liêu.

Theo Quy hoạch điện VIII, Bạc Liêu có 2 nhà máy điện than, song vì thực hiện các nhà máy nhiệt điện than có nhiều nguy cơ, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng nuôi trồng thuỷ sản. Do đó, tỉnh đề xuất rút dự án nhiệt điện than Bạc Liêu ra khỏi quy hoạch điện VIII chuyển hướng sang dự án điện khí đưa vào quy hoạch điện VIII sửa đổi.

Đến nay, dự án điện khí này tiếp tục được đưa vào quy hoạch điện VIII, là mục tiêu của tỉnh thời gian tới, đẩy nhanh công tác lập quy hoạch tỉnh Bạc Liêu đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. "Chúng tôi đã trình Chính phủ sớm triển khai dự án vào giữa năm 2024 tới. Đại diện tỉnh Bạc Liêu cũng nhấn mạnh sẽ quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp chính sách thuế, đất đai, đặc biệt là công tác giải phóng mặt bằng cho triển khai dự án". - ông Đương cho biết.

Với góc nhìn phát triển điện khí LNG từ câu chuyện thế giới, bà Bùi Hồng Vân - Giám đốc điều hành công ty TNHH Angenlin Energy cho biết: năm 2019, những quốc gia sản xuất khí LNG nhiều nhất thế giới (theo thứ tự) gồm Australia, Qatar, Mỹ, Nga và Malaysia. Sang năm 2022, khi xung đột xảy ra giữa Nga - Ukraine, Mỹ bắt đầu xuất khẩu khí LNG cho thị trường châu Âu và đã vươn lên đứng vị trí thứ 2, sau Australia, từ 30 triệu tấn lên 50 triệu tấn.

bà Bùi Hồng Vân - Giám đốc điều hành công ty TNHH Angenlin Energy

Bà Bùi Hồng Vân - Giám đốc điều hành công ty TNHH Angenlin Energy

Ở chiều nhập khẩu, sự gia tăng nhập khẩu LNG vào năm 2022 được thúc đẩy đáng kể bởi châu Âu, nơi chứng kiến mức tăng trưởng hàng năm lớn nhất là 50,4 triệu tấn so với năm 2021.

Năm 2022, sản lượng nhập khẩu từ châu Âu đã tăng lên 126,6 triệu tấn, trở thành khu vực nhập khẩu LNG lớn thứ hai trên thế giới. Châu Á - Thái Bình Dương vẫn giữ vị trí đầu tiên là nhà nhập khẩu lớn nhất với tổng lượng nhập khẩu LNG là 160,9 triệu tấn trong năm 2022, tăng 4,6 MT so với năm ngoái.

Sự biến động của thị trường do xung đột Nga - Ukraine đã tạo ra điều kiện kích thích đầu tư vào các cơ sở hóa lỏng bổ sung để tìm ra sự cân bằng phù hợp giữa an ninh năng lượng và mục tiêu giảm phát thải trong bối cảnh thay đổi nhanh chóng.Tuy nhiên, phát triển dự án LNG cũng gặp nhiều rủi ro.

Theo bà Bùi Hồng Vân, thứ nhất là rủi ro liên quan đến cán cân thị trường. Cân bằng cung cầu LNG toàn cầu là một trong những chỉ số chính để đánh giá nhu cầu đầu tư mới vào các dự án LNG. So sánh nguồn cung LNG thông qua các dự án hóa lỏng sắp tới và được đề xuất với triển vọng về nhu cầu là chìa khóa để xác định sự cân bằng của thị trường. Tuy nhiên, việc dự báo nhu cầu khó khăn hơn nhiều do nhu cầu biến động lớn và vai trò lịch sử của LNG là nguồn năng lượng chính trong các thị trường nhập khẩu lớn.

Thứ hai, rủi ro cung và cầu. Nhu cầu LNG đã tăng vọt, giá cao hơn đã dẫn đến rủi ro về nhu cầu do giá cả, bên cạnh rủi ro về nhu cầu dài hạn do chính sách chi phối theo xu hướng giảm phát thải carbon. Điều này đã gây ra sự thay đổi đáng kể về cán cân LNG toàn cầu trong cả ngắn hạn và dài hạn. Tuy nhiên, sự lo lắng vẫn tồn tại do những nghi ngờ về vai trò lâu dài của khí tự nhiên trong các thị trường nhập khẩu chính.Thứ ba, xu hướng hợp đồng. Theo dõi hoạt động ký hợp đồng LNG là chìa khóa để đánh giá các phê duyệt dự án LNG sắp tới.

Tài chính dự án phụ thuộc rất nhiều vào các thỏa thuận mua bán chắc chắn cho các nguồn cung trong tương lai do cần đầu tư hàng tỷ đô la để tiến hành các dự án. Cuộc khủng hoảng năng lượng đã đưa an ninh nguồn cung quay trở lại chương trình nghị sự, thúc đẩy sự quan tâm ngày càng tăng đối với các hợp đồng LNG dài hạn, trái ngược với việc dựa vào nguồn cung từ thị trường giao ngay.

Năm 2022, hơn 70 triệu tấn LNG đã được ký kết, gấp hơn gấp đôi mức trung bình trong 5 năm qua. Năm 2022, 90% hợp đồng được ký kết có thời hạn trên 15 năm, với 65% trên 20 năm, cho thấy cam kết dài hạn đối với LNG từ phía người mua. Điều này sẽ hỗ trợ cho việc tài chính và phát triển dự án.

Trong số các thỏa thuận được ký vào năm 2022, các thị trường châu Á do Trung Quốc và các thương nhân LNG dẫn đầu là người mua, với các nhà xuất khẩu Mỹ thống trị với tư cách người bán. Các nhà thương nhân đóng vai trò quan trọng vì hỗ trợ phát triển dự án LNG bằng cách xây dựng danh mục LNG toàn cầu, qua đó tạo ra nhu cầu LNG trong tương lai thông qua việc tăng cường tính sẵn có của nguồn cung. Điều này đặc biệt quan trọng khi xây dựng thị trường mới cho nhập khẩu LNG, những thị trường có thể chưa sẵn sàng cam kết với khí đốt và LNG thông qua các hợp đồng dài hạn.

Một số dự án LNG được đề xuất sắp ký hơn 80% công suất của họ thông qua các thỏa thuận dài hạn, một bước quan trọng hướng tới mốc quyết định đầu tư cuối cùng(FID).

Ông Somsak Chutanan - Chuyên gia phát triển dự án năng lượng chia sẻ câu chuyện phát triển điện khí LNG từ Thái Lan.

Ông SOMSAK CHUTANAN - Chuyên gia phát triển dự án năng lượng

Ông Somsak Chutanan - Chuyên gia phát triển dự án năng lượng

Ông cho biết, Thái Lan là một nước nhập khí hóa lỏng 100%, thế nhưng, ngoài điện than và thủy điện thì phát điện bằng khí đang chiếm hơn 50% tổng công suất phát điện trên cả nước.

Tại Thái Lan, việc khai thác dòng khí cũng tương tự như Việt Nam, khi phát hiện ra các mỏ, Chính phủ sẽ giao cho Công ty khí quốc gia làm việc với các đối tác quốc tế để phối hợp khai thác. Sau khai thác, những loại khí đều được đưa về các nhà máy sản xuất điện, tại Thái Lan có 1 kho cảng để tích trữ khí, việc xây dựng kho này đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển điện khí.

Về tiêu dùng và cấu thành giá điện khí của Thái Lan, thì 50% giá được cấu thành từ giá khí cộng chi phí vận chuyển, đặc biệt Thái Lan có nhiều ưu đãi cho các nhà máy điện khí nên giá bán điện khí được phân chia rõ ràng theo nhu cầu giữa công nghiệp và sử dụng sinh hoạt.

Cần phải nhấn mạnh, việc xây dựng cảng và nhà máy điện khí rất tốn kém, và chính phủ luôn khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân để phát triển, các điều khoản trong hợp đồng được thương thảo qua Ngân hàng và các điều kiện được thương thảo trước đó thông qua những hội nghị.

Ông Trần Thanh Tú - Chuyên gia quản lý quỹ chia sẻ rủi ro chia sẻ về “Dự án Thúc đẩy tiết kiệm năng lượng trong các ngành công nghiệp Việt Nam” (VSUEE). Dự án do Quỹ Khí hậu Xanh (GCF) tài trợ ủy thác qua Ngân hàng Thế giới (WB) và Bộ Công Thương, SHB tham gia dự án với vai trò là đơn vị phát hành bảo lãnh cho các Ngân hàng tham gia cấp tín dụng với tổng giá trị Quỹ Chia sẻ rủi ro là 75  triệu USD.

Ông Trần Anh Tú – đại diện SHB

Ông Trần Thanh Tú - Chuyên gia quản lý quỹ chia sẻ rủi ro

Theo ông Tú, SHB là đại diện cho Quỹ khí hậu xanh và World Bank (WB) tài trợ cho chính phủ Việt Nam thông qua Bộ Công Thương nhận khoản tài trợ 86 triệu USD.Về cơ chế quản lý quỹ, SHB sẽ đại diện cho Bộ Công thương và WB quản lý Quỹ 75 triệu USD trong giai đoạn 1 trong đó có sự tham gia của một số ngân hàng như BIDV, Vietcombank,... tham gia vào dự án tiết kiệm năng lượng.

Theo đó, các ngân hàng sẽ tài trợ cho các doanh nghiệp, các nhà máy điện khí chuyển phần bảo lãnh sang cho quỹ chia sẻ rủi ro và bảo lãnh 50% vốn khi đầu tư về thay đổi tiết kiệm năng lượng.

Về điều kiện và cơ chế cụ thể, SHB sẽ phát hành cho bằng đồng USD hoặc VND, tuân theo các hợp đồng tín dụng. Phía ngân hàng sẽ cho các doanh nghiệp đầu tư tiết kiệm năng lượng vay và được bảo lãnh 50% vốn, chẳng hạn quy mô đầu tư một nhà máy, cơ sở tiết kiệm năng lượng khoảng 1.000 tỷ đồng, thì chúng tôi sẽ bảo lãnh 500 tỷ đồng.

Ngoài ra, chúng tôi sẽ thanh toán khi có rủi ro như các doanh nghiệp đầu tư thay đổi về khí, công nghệ tiết kiệm năng lượng, hoặc không lường trước được các trường hợp khó lường như Covid-19 trong suốt năm 2019-2020, dẫn tới các doanh nghiệp và các tổ chức không có khả năng thanh toán, không trả được nợ, không có doanh thu dẫn đến doanh nghiệp gặp khó khăn trong giai đoạn tài chính, bị nợ quá hạn với điều kiện trên 360 ngày.

Thời gian triển khai của quỹ từ cuối năm 2022 đến đầu năm 2026 và phát hành trong 10 năm.

Ông Tú cũng cho biết, vừa qua khi tham dự hội nghị 8 nước tại Hàn Quốc, trong đó có Trung Quốc, Thái Lan, Philippines, Indonesia, Lào, Campuchia và Việt Nam, chúng tôi đã thăm dự án mà WB Hàn Quốc đang tài trợ cho nhà máy điện khí do Hàn Quốc triển khai từ năm 1996. Dự án có diện tích 12 ha ở ngay trong thành phố Seoul với hai tuabin chạy bằng khí có công suất cung cấp cho một thành phố là 800 MW.

Phát biểu tổng kết Diễn đàn, ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch VCCI cho biết: Chúng ta vừa trải qua gần hai tiếng đồng hồ thảo luận sôi nổi. Ban tổ chức đã nhận được nhiều kiến nghị, những giải pháp gỡ “nút thắt” để góp phần thiện thực hoá mục tiêu phát triển điện khí LNG theo Quy hoạch điện VIII.

Ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch VCCI

Ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch VCCI

Các ý kiến đã tập trung vào: Thứ nhất: Hoàn thiện cơ chế, chính sách, sửa đổi các Bộ luật, các Nghị định hướng dẫn, Điều lệ, Quy chế tài chính, cơ chế về giá… có liên quan để chuỗi kinh doanh điện khí LNG hoạt động theo cơ chế thị trường. Thứ hai: Xây dựng các cơ chế đặc thù riêng cho phát triển điện khí LNG tại Việt Nam để đáp ứng tiến độ đặt ra cho các dự án điện khí LNG. Thứ ba: Mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ điện khí LNG. Xây dựng các chính sách thu hút và khuyến khích các nhà đầu tư các loại hình khu công nghiệp các nhà máy cam kết tiêu thụ điện dài hạn cùng với chuỗi nhà máy điện và kho cảng LNG.

Ngay sau Diễn đàn này chúng tôi sẽ tổng hợp các ý kiến, kiến nghị của các chuyên gia, nhà đầu tư gửi tới các cơ quan có thẩm quyền để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh, góp phần thúc đẩy điện khí LNG theo đúng Quy hoạch điện VIII đã đề ra.

Có thể bạn quan tâm

  • PHÁT TRIỂN ĐIỆN KHÍ LNG: Giải pháp về thuế và phí

    15:23, 07/12/2023

  • PHÁT TRIỂN ĐIỆN KHÍ LNG: Cần khung giá cho phát điện

    15:14, 07/12/2023

  • PHÁT TRIỂN ĐIỆN KHÍ LNG: Sáu nhóm giải pháp hiện thực hoá mục tiêu

    14:42, 07/12/2023

  • [TRỰC TIẾP] Hiện thực hoá mục tiêu phát triển điện khí LNG theo Quy hoạch điện VIII

    14:08, 07/12/2023

  • PHÁT TRIỂN ĐIỆN KHÍ LNG: Cần sớm hoá giải các thách thức

    13:58, 07/12/2023

(0) Bình luận
Nổi bật
Mới nhất
Hiện thực hoá mục tiêu phát triển điện khí LNG theo Quy hoạch điện VIII
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO