Cải cách chính sách, đầu tư kết cấu hạ tầng và nhân lực góp phần thúc đẩy Việt Nam vươn lên vị thế cao trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Để Việt Nam nâng cao vị thế trong các chuỗi giá trị toàn cầu, vượt qua những hạn chế mới phát sinh trong nước và giảm nhẹ rủi ro trên toàn cầu, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam nhấn mạnh đến những hành động cần thực hiện. Đó là theo đuổi cách tiếp cận toàn diện, kết hợp những cải cách chính sách quan trọng có thể mở ra hướng tăng trưởng năng suất, thu hút đầu tư của khu vực tư nhân.
Với quan điểm như vậy, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam khuyến nghị 5 nhóm chính sách lớn cần thực hiện.
Cụ thể, chuyển đổi từ hạ thuế sang hội nhập thương mại sâu tập trung khai thác những hiệp định thương mại nhằm giảm đáng kể rào cản phi thuế quan, tự do hóa thương mại dịch vụ và hội nhập sâu trong khu vực. Bằng cách phối hợp với các đối tác quốc tế trong ASEAN cũng như các FTA thế hệ mới, Việt Nam có thể chủ động theo hướng tăng cường chiều sâu các cam kết xoay quanh những nghị trình lớn như thương mại số, hài hòa quy chuẩn, mua bán điện, năng lực kết nối.
Thứ hai, từ nền kinh tế kép chuyển sang hội nhập chuỗi giá trị trong nước thông qua việc tăng cường kết nối và hiệu lực lan tỏa về năng suất từ doanh nghiệp xuất khẩu sang các thành phần còn lại trong nền kinh tế. Qua đó, đem lại tác động rất tích cực về tăng trưởng năng suất đồng thời khiến cho các chuỗi cung ứng được “ăn sâu bén rễ” vào nền kinh tế trong nước, khắc phục tình trạng liên kết yếu giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước.
Với chính sách này, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho rằng cần chú trọng củng cố môi trường kinh doanh, cải thiện kết nối giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp trong chuỗi giá trị toàn cầu, triển khai cơ chế tài chính cho chuỗi giá trị, thiết lập chương trình phát triển các nhà cung cấp.
Thứ ba, từ lắp ráp khâu cuối thâm dụng lao động chuyển sang các hoạt động có hàm lượng công nghệ và kỹ năng cao, đem lại giá trị gia tăng cao, bao gồm cả dịch vụ. Những phân đoạn đem lại giá trị cao trong các chuỗi giá trị toàn cầu thường có hàm lượng dịch vụ lớn.
Hiện nay, tỷ trọng tổng hàm lượng dịch vụ trong tổng kim ngạch xuất khẩu mới chỉ đạt 12%. Với việc thúc đẩy dịch vụ hóa mạnh mẽ hơn nữa, Việt Nam có thể nâng cao vị thế bằng cách vừa chuyển sang các nhiệm vụ và sản phẩm tiên tiến hơn trong các chuỗi giá trị toàn cầu vừa nâng cao giá trị gia tăng trên mỗi lao động
Thứ tư, từ giáo dục cơ bản chuyển sang lực lượng lao động có kỹ năng cao. Hiện nhu cầu về lao động có kỹ năng cao hơn đang ngày càng tăng trong các các lĩnh vực chế tạo chế biến thâm dụng công nghệ và được trả mức lương cao hơn cho kỹ. Sự phát triển của công nghệ, nhất là tự động hóa, đang đẩy nhanh quá trình chuyển đổi về nhu cầu lao động như vậy.
Theo WB, quá trình nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị gắn liền với quá trình vươn lên của Việt Nam trong nấc thang về giáo dục và kỹ năng. Trong đó, ưu tiên tăng đầu tư vào giáo dục đại học, rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo và nhu cầu của thị trường, nhất kỹ năng tay nghề; xúc tiến nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, phối hợp chặt chẽ với khu vực tư nhân, cải thiện hạ tầng đào tạo và nghiên cứu.
Cuối cùng, từ chế tạo chế biến thâm thải carbon sang xuất khẩu các mặt hàng giảm thải carbon, đảm bảo khả năng chống chịu. Chuyển dịch sang nền sản xuất hướng đến sạch hơn và giảm thải carbon nhiều hơn góp phần duy trì năng lực cạnh tranh cho hàng hoá, sản phẩm. Thị trường toàn cầu đang có xu thế chuyển dịch sử dụng các sản phẩm và dịch vụ giảm thải carbon.
Theo WB, phần lớn năng lực chế tạo chế biến xuất khẩu của Việt Nam tập trung ở những địa bàn có nguy cơ thiên tai. Quan trọng và cần thiết tăng cường khả năng chống chịu của hạ tầng, doanh nghiệp trước các cú sốc khí hậu. Đồng thời, giảm nhẹ tác động của chi phí năng lượng tăng lên đối với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bằng cách hỗ trợ tài chính có mục tiêu nhằm đẩy nhanh áp dụng các công nghệ tiết kiệm năng lượng và giảm thải carbon.