Kiên Giang đã hoàn thành triển khai hệ thống Văn phòng điện tử theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp, bảo đảm kết nối, liên thông trong xử lý, điều hành khi nhập tỉnh vào ngày 1/7/2025.
Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Kiên Giang, ông Võ Minh Trung cho biết, những năm qua Kiên Giang đã đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, gắn với chuyển đổi số, tập trung vào các giải pháp như: hoàn thiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường công tác tuyên truyền, và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tham gia vào quá trình số hóa. Trong đó công tác chuyển đổi số và thực hiện Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030” (gọi tắt Đề án 06) của UBND tỉnh Kiên Giang đã triển khai đồng bộ và hiệu quả trên thực tế. Theo đó chuyển đổi số được thực hiện đồng bộ trên 3 trụ cột đó là: chính quyền số, kinh tế số và xã hội số.
“Riêng về mức độ ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị khối hành chính được đánh giá cao trong kết quả công bố Chỉ số Cải cách hành chính năm 2024 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Trong đó, tiêu chí thành phần “Xây dựng và phát triển Chính quyền điện tử, Chính quyền số” của tỉnh Kiên Giang 2024 tiếp tục tăng: vị trí xếp hạng tăng 6 bậc so với năm 2023, vươn lên vị trí thứ 13/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, Kiên Giang được xếp hạn thứ 3 ở Đồng bằng sông Cửu Long về chuyển đổi số”, ông Trung chia sẻ.
Đáng kể nhất là hệ thống phần mềm Văn phòng điện tử hoạt động hiệu quả tại 771 cơ quan với 7.736 tài khoản, 3.845 người dùng trên thiết bị di động. Chỉ riêng quý 1/2025, toàn bộ hệ thống này đã xử lý 213.883 văn bản đến, phát hành 75.393 văn bản đi, tỷ lệ văn bản được ký số 86,7%, tăng 4% so năm 2024. Tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến của người dân, doanh nghiệp đạt 74,4%; tỷ lệ số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính đạt 81,65%. Hạ tầng số được quan tâm đầu tư, tốc độ truy cập mạng, tỷ lệ hộ dân sử dụng cáp quang ngày càng tăng, tạo nền tảng thuận lợi cho phát triển chính quyền số. Tỷ lệ công khai thủ tục hành chính đúng hạn đạt 100%; mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp đạt trên 91%.
Tính đến nay Kiên Giang đã triển khai 12/15 nền tảng số, đạt tỷ lệ 80%. Tuy vậy Tỉnh tiếp tục chỉ đạo điều chỉnh kế hoạch phát triển hạ tầng số; tập trung phát triển mạng viễn thông di động 5G đảm bảo tỷ lệ phủ sóng theo Nghị quyết số 57-NQ/TW; Mạng truyền số liệu chuyên dùng được triển khai, kết nối 100% các cơ quan, đơn vị từ cấp tỉnh đến cấp xã. Ngoài ra, tỉnh đang thực hiện rà soát, điều chỉnh kế hoạch phát triển dữ liệu số của tỉnh phù hợp với Chiến lược dữ liệu quốc gia; triển khai xây dựng Kho dữ liệu dùng chung lưu trữ dữ liệu điện tử, đảm bảo phục vụ hiệu quả nhu cầu giao dịch trực tuyến của người dân, doanh nghiệp với các cơ quan nhà nước. Đặc biệt là Trung tâm tích hợp dữ liệu tỉnh hoạt động ổn định, đảm bảo an toàn thông tin và chuẩn bị được nâng cấp theo định hướng nền tảng điện toán đám mây.
“Từ những nền tảng nêu trên, khi thực hiện công tác sáp nhập tinh gọn bộ máy chính quyền, tỉnh Kiên Giang đã kịp thời hoàn thiện các “mô đun” kết nối thông suốt và vận hành đồng bộ. Tính đến nay Kiên Giang đã hoàn thành triển khai đường truyền số liệu chuyên dùng đến 204 UBND xã, Đảng ủy xã, thị trấn và đơn vị hành chính đặc thù; Thiết lập và vận hành 204 điểm cầu hội nghị truyền hình trực tuyến, bảo đảm kết nối thông suốt từ cấp tỉnh đến cấp xã; Hoàn thành việc triển khai nâng cấp hệ thống Văn phòng điện tử, hệ thống họp trực tuyến, thư điện tử công vụ…”, ông Trung cho biết.
Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Kiên Giang, ông Võ Minh Trung khẳng định, đến thời điểm này Kiên Giang đã hoàn cơ bản việc bố trí trang thiết bị, đảm bảo đầy đủ hạ tầng, nhân sự vận hành tại Trung tâm phục vụ hành chính công cấp tỉnh và cấp xã, phường đặc khu. Theo đó đã hoàn thành việc tích hợp đầy đủ 25 dịch vụ công trực tuyến toàn trình theo danh mục hướng dẫn của Văn phòng Chính phủ lên Cổng Dịch vụ công quốc gia. Có thể nói Đề án 06 của tỉnh Kiên Giang được đánh giá là kịp thời tháo gỡ khó khăn, và được chỉ đạo thực hiện trong thời gian tiếp theo như: xây dựng quy trình lấy chữ ký số của người dân, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong thực hiện giao dịch điện tử.
“Đáng kể nhất là hệ thống Một cửa đã hoàn thành việc nâng cấp, chuẩn hóa, hệ thống phần mềm Một cửa điện tử, bảo đảm liên thông giữa cấp tỉnh – huyện – xã, đồng bộ với Cổng Dịch vụ công quốc gia và đã hoàn thành việc kết nối, tích hợp, liên thông hệ thống Một cửa điện tử với Cổng Dịch vụ công quốc gia theo đúng lộ trình của Chính phủ và đã tổ chức tập huấn, kiểm thử, vận hành kỹ thuật toàn bộ hệ thống tại 100% đơn vị cấp xã, thị trấn, bảo đảm sẵn sàng hoạt động chính thức từ ngày 01/7/2025”, ông Trung cho biết.
Để bảo đảm vận hành bộ máy chính quyền đồng bộ và thông suốt, vừa qua tỉnh Kiên Giang đã hoàn thành triển khai hệ thống Văn phòng điện tử theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp, bảo đảm kết nối, liên thông trong xử lý văn bản, chỉ đạo điều hành giữa cấp tỉnh và cấp xã. Đồng thời, Tỉnh đã tổ chức hướng dẫn, tập huấn sử dụng hệ thống cho 102 UBND các xã, phường, thị trấn và đơn vị hành chính đặc thù, bảo đảm cán bộ, công chức cấp cơ sở sử dụng thành thạo trước thời điểm sáp nhập. Bên cạnh đó, tỉnh đã tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI) vào hệ thống Văn phòng điện tử giúp nâng cao hiệu quả xử lý công việc, giảm thời gian thao tác thủ công và hỗ trợ cán bộ trong công tác tổng hợp báo cáo.
Nhằm xây dựng công cuộc chuyển đổi số hiệu quả và bền vững, vừa qua Ban Thường vụ Tỉnh ủy Kiên Giang cũng đã chỉ đạo tiếp tục thực hiện nâng cao năng lực, tổ chức bộ máy Phòng Chuyển đổi số-Cơ yếu thuộc Văn phòng Tỉnh ủy, kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự về khoa học, công nghệ, chuyển đổi số trong giai đoạn hiện nay và sau khi sáp nhập tỉnh. Đồng thời UBND tỉnh Kiên Giang cũng đã chỉ đạo ngành chức năng rà soát, xây dựng các cơ chế ưu tiên thu hút nhân lực chuyển đổi số có trình độ cao; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về chuyển đổi số cho cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh để phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn.