Thị trường Mỹ vẫn là điểm đến quan trọng bậc nhất của các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dệt may và gỗ, ngay cả khi đối mặt với nhiều bất ổn và thách thức về chính sách thương mại.
Các doanh nghiệp Việt Nam đang thể hiện sự lạc quan và chủ động tìm kiếm các giải pháp linh hoạt để duy trì và phát triển vị thế của mình tại thị trường đầy tiềm năng này.
Ông Phạm Văn Việt, Phó Chủ tịch Hội Dệt may Thời trang TPHCM, cho biết, trong 7 tháng đầu năm 2025, ngành đã sản xuất được 26,3 tỷ USD, với mức tăng trưởng ấn tượng khoảng 9%. Mặc dù vậy, ông Việt cũng thông tin rằng đến tháng 7, tốc độ tăng trưởng vào thị trường Mỹ đã giảm từ khoảng 9% xuống còn 4%.
Về ngành gỗ, ông Nguyễn Chánh Phương, Phó Chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TPHCM, cho biết trong 7 tháng đầu năm, xuất khẩu gỗ của Việt Nam vẫn tiếp tục tăng khoảng 8% so với năm 2024, và thị trường Hoa Kỳ cũng tăng trưởng ở mức tương tự. Ông Phương nhận định Việt Nam đang dần trở thành nhà cung cấp chính cho thị trường Hoa Kỳ, với năng lực sản xuất ngày càng tinh vi hơn, thay thế dần chuỗi cung ứng của Trung Quốc.
Theo ông Phương, ngành gỗ là một ngành rất quan trọng, đứng trong 6 ngành tốp đầu cả nước, với sự cân bằng giữa các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp FDI. Ông khẳng định Mỹ vẫn là thị trường quan trọng và ổn định nhất của Việt Nam, cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn, bất chấp các vấn đề về thuế đối ứng.
Việt Nam có lợi thế về lực lượng lao động tay nghề cao, khéo léo, cần cù và sáng tạo, cùng với nguồn nguyên liệu dồi dào từ khoảng 4 triệu hecta rừng trồng trong nước và chính sách nhập khẩu thông thoáng. Mức lương lao động khoảng 400 USD của Việt Nam vẫn còn cạnh tranh so với các nước xung quanh và thấp hơn đáng kể so với mức 4.000 đô la Mỹ mà Hoa Kỳ mong muốn khi dịch chuyển ngành về nước.
Ngành gỗ cũng có lợi thế đặc biệt khi sử dụng nguyên vật liệu từ rừng trồng, phù hợp với xu thế xanh không thể đảo ngược trên thị trường toàn cầu.
Tuy nhiên, chính sách thuế quan mới đang gây ra không ít thách thức. Ông Phạm Văn Việt cho biết ngành dệt may đang gặp sự bất ổn lớn khi Mỹ áp dụng thuế đối ứng 20% với hàng dệt may Việt Nam và khả năng áp mức 40% cho các trường hợp chuyển tải (trans-shipping). Điều đang quan ngại là định nghĩa “chuyển tải” vẫn chưa rõ ràng, gây lo lắng cho cả doanh nghiệp Việt lẫn các khách hàng nhập khẩu bên Mỹ.
Ông Việt giải thích rằng mức thuế đối ứng 20% khi cộng dồn có thể khiến hàng Việt Nam phải trả trung bình dao động quanh mức 35%. Mức thuế này làm giảm khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế. Mặc dù Việt Nam vẫn còn nhiều lợi thế so với Bangladesh hay Ấn Độ, nhưng Mê hi cô đang nổi lên thành một đối thủ đáng gờm.
Đối với ngành gỗ, ông Nguyễn Chánh Phương cho biết, thông tin Mỹ đang có ý định đưa việc sản xuất ngành này quay trở lại Mỹ đang tạo thêm một bất ổn mới cho doanh nghiệp. Sự bất ổn này còn tạo ra bất định về mặt đầu tư, thậm chí làm sụt giảm trên thị trường chứng khoán cho các nhà nhập khẩu lớn của Hoa Kỳ. Ngay cả các nhà sản xuất tại Hoa Kỳ cũng không quá lạc quan vì chính sách bất ổn này khiến họ không thể ngay lập tức đầu tư gia tăng sản xuất nội địa. Ông Phương cho biết thêm, Mỹ không sẵn sàng về mặt lao động (chỉ khoảng 300 ngàn người trong ngành) và nguồn nguyên liệu, đặc biệt là các phụ liệu như vải da, kim loại mà họ đang phải nhập khẩu từ Trung Quốc và Việt Nam.
Trước những thách thức này, các ngành đã và đang triển khai nhiều giải pháp và hành động cụ thể.
Ông Việt cho biết, để chuẩn bị cho các tình huống bất lợi, 70 đến 80% doanh nghiệp đã làm hồ sơ truy xuất nguồn gốc rất đầy đủ, sẵn sàng chứng minh xuất xứ khi cần thiết. Ông Việt cũng cho biết các doanh nghiệp Việt Nam thường có từ hai đến ba thị trường xuất khẩu, điều này giúp giảm bớt áp lực từ một thị trường duy nhất.
Ngành dệt may đang nỗ lực nội địa hóa nguồn cung vải và đầu vào lên khoảng 30 đến 50% trong 1-2 năm tới. Các doanh nghiệp cũng đang chuyển đổi từ hình thức sản xuất gia công sang sản xuất theo thiết kế riêng và xa hơn là phát triển thương hiệu Việt xuất khẩu.
Hiệp hội Dệt may Thời trang TPHCM đang chuẩn bị một bộ quy tắc truyền thông cho các doanh nghiệp và dự thảo đề án về "doanh nghiệp xanh", đồng thời triển khai thử nghiệm tại 10 doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xanh và sạch. Phát triển mạnh phụ liệu tái chế, tiết kiệm năng lượng và kiểm tra nguyên phụ liệu cũng là những hướng đi quan trọng để đa dạng hóa thị trường. Trong ngắn hạn, các doanh nghiệp xuất khẩu nhiều sang Mỹ đang chia sẻ chi phí thuế với đối tác nhập khẩu. Về dài hạn, ngành sẽ tăng cường mở rộng sang các thị trường khác, tiếp tục chuyển đổi công nghệ và ứng dụng AI vào sản xuất để tăng năng suất.
Một chiến lược lâu dài khác là nội địa hóa và hợp tác với ASEAN để thay đổi chuỗi cung ứng, cũng như phát triển thị trường nội địa và thương hiệu Việt Nam. Ông Việt nhấn mạnh cần dự báo được biến động của thị trường, đặc biệt là thị trường Mỹ, và đáp ứng các tiêu chuẩn của thị trường Châu Âu cùng các thị trường khác để tăng khả năng cạnh tranh. Ông cũng khẳng định cần cố gắng phát triển nội địa hóa và thương hiệu của Việt Nam, đồng thời tìm hướng để cạnh tranh và tăng khả năng cạnh tranh vào thị trường Mỹ.
Về phía ngành gỗ, ông Nguyễn Chánh Phương cho rằng các doanh nghiệp cần đa dạng hóa khả năng cung ứng không chỉ gỗ mà còn cả vải và kim loại, biến thách thức này thành cơ hội để gia tăng xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Ông Phương duy trì một sự lạc quan nhất định đối với ngành gỗ và thị trường Mỹ, khuyến nghị doanh nghiệp cần xây dựng nội lực, tăng tỷ lệ nội địa hóa và đầu tư vào các khâu có giá trị gia tăng cao để giữ vững thị trường Hoa Kỳ và tạo lợi thế cạnh tranh. Đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp thuần Việt tìm thấy những khoảng trống hay cơ hội mà các doanh nghiệp FDI đang mang đến. “Về lâu dài, ngành gỗ sẽ cố gắng tái cấu trúc để sử dụng ít lao động hơn nhưng tạo ra nhiều sản phẩm và thu nhập hơn, tập trung vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao”, ông Phương nói.