“Đòn bẩy” thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 2021 - 2025

Minh Phong 01/01/2020 11:06

Việt Nam đang trở thành tâm điểm của dòng vốn đầu tư trong khu vực với các cơ hội rộng mở trên nhiều lĩnh vực.

Theo dự báo, việc ký kết và thực hiện các FTA thế hệ mới trong thời điểm cuối chặng đường 2016 - 2020 là một trong những nhân tố tác động tới kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới (2021 - 2025), nhờ đó, tăng trưởng GDP có thể đạt 7%/năm…

Việt Nam cần tạo dựng nền tảng cho tăng trưởng cao ngay từ những năm đầu của thời kỳ chiến lược mới để đẩy nhanh quá trình vượt bẫy thu nhập trung bình và vượt qua sự phát triển của một số nền kinh tế châu Á.

Việt Nam cần tạo dựng nền tảng cho tăng trưởng cao ngay từ những năm đầu của thời kỳ chiến lược mới để đẩy nhanh quá trình vượt bẫy thu nhập trung bình và vượt qua sự phát triển của một số nền kinh tế châu Á.

Việt Nam đang trở thành tâm điểm của dòng vốn đầu tư trong khu vực với các cơ hội rộng mở trên nhiều lĩnh vực. Nhưng đặt trong bối cảnh kinh tế thế giới được dự báo sẽ đối mặt với các rủi ro khó lường, liệu ước mơ thịnh vượng của Việt Nam có trở thành hiện thực? Và đâu là những cơ hội đầu tư tiềm năng cho cộng đồng doanh nghiệp khai phá trong giai đoạn 5 năm tới (2021-2025).

Cơ hội mở rộng xuất khẩu từ các FTA

Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2016-2020 đã đi được gần hết chặng đường, dù còn khó khăn nhưng kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả ấn tượng. Tăng trưởng GDP phục hồi rõ nét sau giai đoạn 2011-2015, duy trì được tốc độ cao, đặc biệt là trong các năm 2017-2019 (với tốc độ tăng tương ứng đạt 6,81, 7,08% năm 2017, 2018 và khoảng 7,1% năm 2019.

Có thể nói, đây là kết quả đáng khích lệ trong bối cảnh kinh tế thế giới, thương mại toàn cầu và tăng trưởng kinh tế ở hầu hết các khu vực, các nền kinh tế chậm lại. 

Nhìn từ phía cung, khu vực công nghiệp, xây dựng và khu vực dịch vụ là hai khu vực dẫn dắt tăng trưởng chung, bù đắp cho sự giảm sút của khu vực nông lâm nghiệp, thủy sản, do đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là vào các năm 2016 và 2019. Từ phía cầu, tăng trưởng kinh tế cao nhờ tiêu dùng tăng cao hơn và thặng dư thương mại lớn hơn giai đoạn trước. 

Ký kết EVFTA có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi đây là 1 trong 2 FTA thế hệ mới có ảnh hưởng mạnh và sâu rộng đến nền kinh tế của Việt Nam.

Ký kết EVFTA có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi đây là 1 trong 2 FTA thế hệ mới có ảnh hưởng mạnh và sâu rộng đến nền kinh tế của Việt Nam.

Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 lan rộng, việc tham gia các FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại  tự do Việt Nam - EU (EVFTA) được kỳ vọng sẽ mang lại nhiều cơ hội phát triển kinh tế cho Việt Nam thông qua việc mở rộng xuất khẩu, đầu tư và ứng dụng khoa học công nghệ. 

Ông Hà Duy Tùng – Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Tài chính), cho biết, đến nay, nhiều FTA đang bước vào giai đoạn cuối của lộ trình cắt giảm thuế quan. Theo Bộ Tài chính, mức thuế suất trung bình của các dòng thuế cam kết cắt giảm trong 11 FTA trong năm 2019 là từ 0,07% - 9,1%, trong đó thấp nhất là mức thuế trong ASEAN là 0,07% và cao nhất là cam kết trong CPTPP với mức 9,1%. Đến năm 2022, mức thuế suất trung bình của các dòng thuế cam kết cắt giảm là từ 0,04% - 4,8%, trong đó thấp nhất vẫn là mức thuế trong ASEAN và cao nhất là thuế cam kết trong CPTPP.

Theo ông Hà Duy Tùng, cam kết cắt giảm thuế xuất khẩu là điểm mới trong Hiệp định EVFTA. Trong đó, Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế xuất khẩu với hàng hóa xuất khẩu sang EU lộ trình lên đến 15 năm, trừ những mặt hàng được duy trì thuế xuất khẩu tập trung vào một số nhóm hàng quan trọng như: dầu thô, than đá (trừ than để luyện cốc và than cốc). Cam kết về thuế xuất khẩu trong EVFTA cơ bản tương tự như cam kết về thuế xuất khẩu của Việt Nam trong Hiệp định CPTPP. 

Bà Trần Thị Hồng Minh - Giám đốc NCIF khẳng định, việc ký kết và thực hiện các FTA thế hệ mới, đặc biệt là CPTPP và EVFTA, sẽ tác động sâu, rộng tới nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025. 

“EVFTA và CPTPP có thể giúp GDP của Việt Nam tăng thêm lần lượt 4,3% và 1,3% vào năm 2030. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU đến năm 2030 dự kiến tăng thêm khoảng 44,4%; xuất khẩu sang các nước thành viên CPTPP đến năm 2035 tăng 14,3%” - bà Minh dự báo.

Có thể đạt mức tăng trưởng  khoảng  7,5%?

Theo kịch bản cao tương ứng với kịch bản của thế giới vừa được Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế Xã hội Quốc gia (NCIF) đưa ra mới đây, Việt Nam hoàn toàn có thể kỳ vọng đạt mức tăng trưởng khoảng 7,5% nếu tận dụng được công nghệ từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và thu  hút đầu tư có sự cải thiện về quy mô và chất lượng, phát triển tốt nền tảng kinh tế hiện tại.

Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế  thế giới suy thoái, tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam sẽ đạt khoảng 7%/ năm trong giai đoạn 2021 - 2025; kinh tế vĩ mô về cơ bản ổn định, lạm phát ở mức 3,5-4,5%/năm. Năng suất lao động cải thiện hơn với tốc độ tăng khoảng 6,3%/năm.

Dự báo, với kết quả tăng trưởng này, đến năm 2025, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt khoảng 4.688 USD, đưa Việt Nam gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình cao. 

“Việc duy trì được mức tăng trưởng 7% này cũng là một thách thức lớn trong bối cảnh kinh tế thế giới đang suy thoái” - TS Đặng Đức Anh, Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia nhận định. 

Ông Anh cho rằng, trong giai đoạn 2021 - 2025, tăng trưởng kinh tế dự báo vẫn sẽ phụ thuộc vào khu vực công nghiệp xây dựng và dịch vụ, trong đó quan trọng là hai nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo và ngành bán buôn, bán lẻ. Sự chuyển đổi nhanh hơn của mô hình tăng trưởng theo hướng năng suất, chất lượng và hiệu quả, với động lực chính là khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ giúp duy trì mức tăng trưởng cao và ổn định cho nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.

Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam trong trung hạn cũng sẽ đối mặt với nhiều khó khăn, rủi ro và thách thức. Việt Nam tiếp tục chịu tác động tiêu cực do kinh tế toàn cầu giảm tốc khi bảo hộ thương mại và xung đột thương mại gia tăng. Hoạt động xuất khẩu và đầu tư đứng trước nhiều rủi ro. 

Trong nội tại nền kinh tế, các vấn đề mang tính cơ cấu như: mô hình tăng trưởng chưa thoát khỏi quán tính tăng trưởng theo chiều rộng; hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt là hiệu quả đầu tư công chưa cao; khả năng cạnh tranh yếu hay năng lực đổi mới sáng tạo thấp tiếp tục là những cản trở cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng bền vững trong thời gian tới. 

Cần thêm nhiều “đột phá” 

Các chuyên gia cho rằng, để đạt mức tăng trưởng GDP ở mức 7%/năm trong giai đoạn 2021-2025, nếu Việt Nam không có đột phá về đầu tư sẽ khó vượt ra khỏi quy mô như hiện nay (tăng trưởng vẫn chủ yếu phụ thuộc vào vốn).

Ở giai đoạn 2016 - 2020, Việt Nam đã có bước chuyển dịch khá nhanh từ nông nghiệp sang công nghiệp. Song, sự dịch chuyển này chưa tỷ lệ thuận với chất lượng, các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao đóng góp còn thấp, chi phí dịch vụ logistic tương đối cao. Xuất khẩu vẫn phụ thuộc vào nhóm hàng do doanh nghiệp FDI dẫn dắt, kim ngạch xuất khẩu tăng nhưng hàm lượng nội địa không tăng tương ứng và vẫn còn khoảng cách với các nước trong khu vực. 

Để khắc phục “điểm yếu” trên, TS. Trần Toàn Thắng, Trưởng ban Kinh  tế Thế giới (NCIF) cho rằng, thời gian tới, Việt Nam cần tập trung vào ba

vấn đề cốt lõi là nâng cao năng lực nội tại của nền kinh tế; đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy gia tăng các động lực tăng trưởng mới; tận dụng hiệu quả các cơ hội từ hội nhập quốc tế, các xu thế phát triển khoa học công nghệ và CMCN 4.0.

Đồng thời, Việt Nam cần đẩy nhanh quá trình cải cách thể chế và cải thiện môi trường; thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của khu vực tư nhân; thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động; chú trọng phát triển công nghiệp chế biến chế tạo theo chiều sâu và tận dụng tối đa các lợi ích để bắt kịp xu hướng CMCN 4.0. 

Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021-2025 có ý nghĩa quan trọng bởi đây vừa  là giai đoạn mở đầu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thứ ba (2021- 2030), vừa là giai đoạn tạo nền tảng cho phát triển kinh tế trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực chuyển đổi mô hình tăng trưởng và thoát bẫy thu nhập trung bình. Vì vậy, Việt Nam cần tạo dựng nền tảng cho tăng trưởng cao ngay từ những năm đầu của thời kỳ chiến lược mới để đẩy nhanh quá trình vượt bẫy thu nhập trung bình và vượt qua sự phát triển của một số nền kinh tế châu Á” – ông Thắng nói.

Liên quan đến tăng trưởng GDP, TS Võ Trí Thành, nguyên Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quán lý Kinh tế Trung ương (CIEM) cũng cho rằng, Việt Nam có khát vọng vượt lên thế giới ở một số lĩnh vực, đặc biệt lĩnh vực kinh tế số, trong 10 -15 năm tới trở thành nước có thu nhập trung bình cao. Muốn vậy, GDP phải tăng bình quân 7,5%/năm. 

Theo ông Thành, hiện Việt Nam đứng thứ 8 thế giới về thu hút đầu tư vì địa chính trị, dân số trẻ, dịch chuyển thương mại, cam kết cải cách hội nhập. Một trong những yếu tố hấp dẫn nhất để Việt Nam trở thành điểm đến đầu tư là chơi với Việt Nam dễ dàng như chơi với thế giới, vì Việt Nam có 16 FTAs, bao phủ các thị trường lớn nhất trên thế giới dù Hoa Kỳ đã rút ra khỏi TPP.

Minh Phong