Kinh tế Việt Nam “năm COVID thứ hai” (Kỳ I): Cơ hội trước thách thức lớn
Ngân hàng thế giới (WB) dự báo tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam có thể đạt 6,8% trong năm 2021, sau đó ổn định xoay quanh mức 6,5% vào năm 2022.
Là một trong số ít các nền kinh tế trên thế giới đã thể hiện được năng lực kiểm soát bệnh dịch lây lan, Việt Nam đồng thời duy trì được khả năng chống chịu đáng chú ý của nền kinh tế với cú sốc COVID-19.
Tăng trưởng tích cực
Triển vọng kinh tế Việt Nam trong ngắn hạn và trung hạn phụ thuộc nhiều vào tốc độ khôi phục của nền kinh tế trong nước cũng như vào diễn biến của đại dịch trên thế giới.
Theo đó, Ngân hàng thế giới (WB) dự báo tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam có thể đạt 6,8% trong năm 2021, sau đó ổn định xoay quanh mức 6,5% vào năm 2022 với điều kiện tình hình trong nước và quốc tế thuận lợi. Tuy nhiên những dự báo trên còn phụ thuộc vào nhiều bất định trong bối cảnh toàn cầu, kết quả quản lý một số rủi ro có thể phát sinh ở các mặt tài khóa, tài chính và xã hội.
Cụ thể, ngành nông nghiệp dự kiến sẽ phục hồi sau tác động của dịch cúm heo gây ảnh hưởng trong quý 1 năm 2020 và những thiệt hại trong mùa bão năm 2020. Ngành dịch vụ tiếp tục khôi phục nhờ gỡ bỏ hầu hết các biện pháp giãn cách xã hội theo dự báo và nhờ sức cầu tăng lên ở tầng lớp trung lưu trong nước. Các biện pháp cấm du khách nước ngoài sẽ từng bước được gỡ bỏ và ngành du lịch sẽ từng bước phục hồi.
Cùng với đó, các hoạt động chế tạo và chế biến sẽ khởi sắc hơn nữa khi nền kinh tế Hoa Kỳ và EU khôi phục, trở thành động lực gia tăng nhu cầu với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Quá trình hồi phục còn được tăng cường nhờ các hiệp định khu vực mới được thông qua và sự cộng hưởng dự kiến được hình thành giữa các công ty đa quốc gia và các doanh nghiệp trong nước.
Những khuyến nghị trong điều hành
WB khuyến nghị, khi những động lực tăng trưởng tích cực được khẳng định, chính sách tiền tệ và tài khóa nới lỏng cần bắt đầu được chấm dứt từ giữa năm 2021. Điều này nhằm đảm bảo các chính sách đó không làm nền kinh tế phát triển quá nóng.
Theo đó, lạm phát sẽ được duy trì dưới chỉ tiêu 4% do NHNN đặt ra. Việc tăng giá các mặt hàng và dịch vụ do nhà nước quản lý và cú sốc khí hậu tác động đến nguồn cung lương thực thực phẩm có thể khiến cho các mặt hàng lương thực, thực phẩm, một số dịch vụ sự nghiệp công và đặc thù khác tăng giá ngắn hạn, nhưng điều đó dự kiến không làm thay đổi căn bản các yếu tố tạo ra kỳ vọng về giá trong những năm tới.
Cùng với đó, cơ quan có thẩm quyền tiền tệ dự kiến sẽ quay lại với chính sách thận trọng nhằm cân đối giữa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và quản lý lạm phát. “Cơ quan có thẩm quyền cần theo dõi thận trọng trường hợp nợ xấu tăng lên nhằm đảm bảo sức khỏe cho khu vực tài chính và thúc đẩy áp dụng các quy tắc an toàn vốn theo Basel II cho tất cả các ngân hàng có hoạt động. Sự phát triển của ngân hàng số và sự xuất hiện của hệ thống thanh toán điện tử quốc gia sẽ đẩy mạnh tài chính bao trùm với tác động tích cực đến các doanh nghiệp nhỏ và các cơ sở sản xuất kinh doanh ở khu vực phi chính thức”, WB đánh giá.
Đặc biệt, khi tăng trưởng kinh tế dần quay lại tốc độ cao hơn nhờ các hoạt động của khu vực tư nhân được đẩy mạnh và nhờ kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển, Chính phủ sẽ có khả năng quay lại lộ trình củng cố tình hình tài khóa trong những năm tới.
Theo đó, bội chi ngân sách cần phải giảm từ ước 6% GDP trong năm 2020 xuống 4,8% GDP trong năm 2021 và 4,0% trong năm 2022 để mở đường cho quỹ đạo nợ bền vững trong trung và dài hạn. Để đảm bảo quá trình củng cố tài khóa không ảnh hưởng đến tiềm năng tăng trưởng trong trung và dài hạn, thu nội địa cần được cải thiện thông qua cải cách chính sách và quản lý thu, đồng thời sử dụng nguồn thu hiệu quả để đáp ứng nhu cầu dự kiến tăng lên cho các công trình hạ tầng và các dịch vụ xã hội có chất lượng cao mà nền kinh tế cần có trong thập kỷ tới.
Đồng thời, nâng cao hiệu suất chi tiêu trong các hoạt động sự nghiệp thông qua lập kế hoạch, lựa chọn và triển khai tốt hơn các chương trình đầu tư là cách để tiếp tục hỗ trợ các mục tiêu tài khóa tổng thể của cấp có thẩm quyền. Áp dụng cơ chế hợp tác công-tư trên cơ sở Luật mới được ban hành không chỉ giúp thu hút thêm nguồn vốn đầu tư mà còn nhằm nâng cao chất lượng các dự án đầu tư thông qua chuyển giao công nghệ và cải thiện về cơ chế quản trị.
Tài khoản vãng lai dự kiến vẫn thặng dư, nhờ kết quả xuất khẩu vững chắc và nguồn kiều hối tăng lên. Do có sự tương quan rõ rệt giữa xuất khẩu và nhập khẩu, thặng dư tài khoản vãng lai sẽ chỉ ở mức khiêm tốn, khoảng từ 1 đến 1,5% GDP trong trung hạn. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) dự kiến sẽ hồi lại về mức trước COVID, nhờ các chuỗi giá trị toàn cầu được khôi phục và nhu cầu đa dạng hóa nguồn sản xuất của các công ty đa quốc gia và chính phủ các nước.
Trong thời gian tới, quyết định tiếp tục đa dạng hóa các đối tác thương mại, qua đó tạo thêm cơ hội kinh tế, như được biết qua sự kiện ký kết Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) có phạm vi bao phủ lớn, sẽ giúp nền kinh tế nâng cao năng suất và khả năng chống chịu.
Cơ hội đến từ các hiệp định thương mại khu vực
Theo WB, Việt Nam lâu nay vẫn áp dụng cách thức thông qua các hiệp định thương mại khu vực và toàn cầu để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và đẩy mạnh phát triển kinh tế. Những hiệp định đó được vận dụng để giảm thuế quan và các rào cản phi thuế quan. Quan trọng không kém là những hiệp định đó tạo điều kiện cho các cấp có thẩm quyền tiếp cận thông lệ quốc tế tốt, nhằm từng bước giúp họ nâng cấp các cơ chế thể chế và pháp lý, đặc biệt nhằm hỗ trợ các lĩnh vực có khả năng giao thương.
Cách tiếp cận trên đã và đang được theo đuổi trong những năm qua, dẫn đến thông qua ba hiệp định khu vực lớn là: Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) với các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương vào tháng 12/2018; Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) với Liên minh Châu Âu vào tháng 06/2020; và Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện kkhu vực (RCEP) với 14 nước láng giềng châu Á vào tháng 11/2020. Kết hợp với nhau, ba hiệp định đó bao trùm khoảng 81% giao dịch thương mại của Việt Nam trong năm 2019.
Ngoài những lợi ích rõ rệt qua ba hiệp định thương mại trên (chủ yếu do quy mô của các thị trường liên quan hơn là do cắt giảm thuế quan), các hiệp định đó cũng là tín hiệu cho thấy Việt Nam cam kết mạnh mẽ với toàn cầu hóa (hoặc khu vực hóa), khi chủ nghĩa bảo hộ đang trỗi dậy ở những miền đất khác trên thế giới. Cam kết đó cũng là ưu tiên chính được lồng vào chiến lược phát triển quốc gia mới sẽ được các nhà lãnh đạo đứng đầu quốc gia thông qua vào đầu năm 2021.
Hơn nữa, với phần lớn các bên liên quan ở Việt Nam, ba hiệp định thương mại tự do nêu trên có thể tạo động lực mạnh mẽ nhằm tạo sự đồng thuận và qua đó đẩy mạnh triển khai những cải cách thể chế đầy thách thức.
Có thể bạn quan tâm
Động lực cho tăng trưởng kinh tế 2021
10:00, 04/02/2021
Kịch bản tăng trưởng kinh tế 2021 bị tác động ngay quý I vì COVID-19
04:00, 03/02/2021
Tăng trưởng tín dụng quý I/2021: Có thể lạc quan ?
06:30, 02/02/2021
Dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu 2021 lên 5,5%
00:36, 30/01/2021
Tăng trưởng lĩnh vực đầu tư và dịch vụ sẽ hỗ trợ cho nền kinh tế những năm tới
04:15, 22/01/2021
Kịch bản nào cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2021?
15:41, 20/01/2021