Thu hút đầu tư phát triển 6 ngành kinh tế biển
Theo đó, du lịch và dịch vụ biển, kinh tế hàng hải, nuôi trồng và khai thác hải sản, công nghiệp ven biển, năng lượng tái tạo…sẽ là những mũi nhọn.
>>>Phú Yên: Phát triển dịch vụ du lịch hài hoà với công nghiệp, nông nghiệp
Ngày 12/6 Diễn đàn ”Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam năm 2022” do Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường và Tỉnh ủy Phú Yên tổ chức. Diễn đàn ”Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam năm 2022” nằm trong chuỗi sự kiện Tuần lễ biển và hải đảo Việt Nam năm 2022 và nhằm đánh giá các kết quả đạt được, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân sau 4 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, từ đó kiến nghị, đề xuất với Bộ Chính trị, Ban Bí thư những nhiệm vụ, giải pháp thực hiện tốt Nghị quyết trong thời gian tới.
Kinh tế biển là động lực tăng trưởng
Theo ông Phạm Đại Dương, Bí thư Tỉnh uỷ Phú Yên, kinh tế biển và ven biển đóng góp tỷ lệ lớn vào tổng sản phẩm quốc nội, là nguồn thu ngoại tệ mạnh phục vụ phát triển đất nước.
Đồng thời, việc phát triển kinh tế biển có vai trò quan trọng trong tăng cường sức mạnh tổng hợp, thế và lực của quốc gia cũng như nâng cao “thế trận lòng dân” trên các vùng biển, đảo. Có thể nói, kinh tế biển có vai trò quan trọng trong tổng thể phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của đất nước.
Trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với không ít các vấn đề về phát triển, Việt Nam không chỉ đối mặt với những thách thức chung mà còn là một nước đang phát triển nhanh nên phải đối mặt với các nguy cơ của bẫy thu nhập trung bình, nguy cơ bỏ lỡ cơ hội vàng để phát triển vươn lên, các vấn đề về dịch bệnh, ô nhiễm môi trường…
“Trong bối cảnh đó, phát triển kinh tế biển nổi lên như là một động lực tăng trưởng mới, bù đắp vào sự tăng trưởng chậm lại của kinh tế nội địa, đồng thời, cũng là giải pháp để các quốc gia gia tăng ảnh hưởng tại các vùng biển, hải đảo, đặc biệt là các khu vực có nguồn lợi hải sản, trữ lượng tài nguyên, dầu mỏ lớn, các khu vực có tranh chấp và các khu vực có các tuyến thương mại quan trọng của thế giới”, ông Phạm Đại Dương khẳng định.
Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh cũng nhấn mạnh, trong tiến trình bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt coi trọng vai trò của biển.
Theo đó, các chủ trương, chính sách lớn về biển và phát triển bền vững kinh tế biển đã được Trung ương xem xét, ban hành để thống nhất tổ chức triển khai thực hiện. Năm 2007, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã ban hành "Chiến lược biển Việt Nam". Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá X về Chiến lược biển Việt Nam, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khoá XII đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Theo đó, Đến năm 2030, phát triển thành công, đột phá về các ngành kinh tế biển theo thứ tự ưu tiên: (1) Du lịch và dịch vụ biển; (2) Kinh tế hàng hải; (3) Khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; (4) Nuôi trồng và khai thác hải sản; (5) Công nghiệp ven biển; (6) Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới.
Sau 04 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, các cơ quan Trung ương và các địa phương có biển đã ban hành chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết. Nhận thức của toàn hệ thống chính trị và người dân về vị trí, vai trò của biển, đảo đối với phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia được nâng lên rõ rệt. Chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển được giữ vững; công tác tìm kiếm cứu nạn, an toàn hàng hải được tăng cường; công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển được chủ động triển khai toàn diện.
“Kinh tế biển, các vùng biển, ven biển đang trở thành động lực phát triển của đất nước; hệ thống kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư; đời sống vật chất và tinh thần của người dân vùng biển được cải thiện rõ rệt. Nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản, phát triển nguồn nhân lực về biển đạt được nhiều kết quả tích cực. Công tác quản lý, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên môi trường biển, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng được chú trọng”, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương khẳng định.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ông Trần Tuấn Anh cũng cho rằng, phát triển kinh tế biển trong những năm qua chưa thực sự ấn tượng. Quy mô kinh tế biển còn khiêm tốn, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý; hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển; các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo biển, thiên tai biển, các trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn... ở ven biển còn nhỏ, trang bị thô sơ, năng lực còn yếu. Môi trường biển biến đổi theo chiều hướng xấu. Đa dạng sinh học biển và nguồn lợi thủy sản đang giảm sút nghiêm trọng, thiếu bền vững...
Đồng quan điểm, Thứ trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi trường Lê Minh Ngân nhấn mạnh, Thế kỷ 21 được xem là thế kỷ của đại dương, biển đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc gia.
“Kinh tế biển, ven biển đã trờ thành động lực phát triển kinh tế của đất nước. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng, “ra biển là thịnh vượng, ngược biển là suy tàn”, Thứ trưởng Lê Minh Ngân nhấn mạnh.
Là một doanh nghiệp nhà nước với vai trò nòng cốt, chủ lực của ngành hàng hải Việt Nam, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam luôn vươn lên vị trí dẫn đầu, dẫn dắt sự phát triển của ngành, ông Lê Anh Sơn, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty Hàng hải Việt Nam - CTCP (VIMC) nhấn mạnh: Một trong những chủ trương lớn và khâu đột phá tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là ưu tiên kinh tế hàng hải đứng thứ hai trong việc phát triển các ngành kinh tế biển.
Nhằm gia tăng năng lực khai thác, thực hiện theo tinh thần Nghị quyết số 36-NQ/TW “Xây dựng và hoàn thiện hạ tầng logistics và các tuyến đường giao thông, kết nối liên thông các cảng biển các vùng, miền, địa phương trong nước và quốc tế”, Tổng công ty tập trung đầu tư phát triển để hình thành ít nhất 03 trung tâm logistics lớn tại khu vực miền Bắc (Hải Phòng, Hà Nội), miền Trung (Đà Nẵng, Quy Nhơn), miền Nam (khu vực Cái Mép - Thị Vải, ĐBSCL).
Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động đầu tư phát triển hệ thống ICD, kho bãi mới còn chậm do khả năng tiếp cận quỹ đất tại các vùng kinh tế trọng điểm gặp nhiều khó khăn vì hạn chế về quỹ đất và giá đất tăng cao. Các doanh nghiệp rất khó xác định, tìm kiếm được khu vực vừa có quỹ đất phù hợp, vừa đảm bảo khả năng kết nối giao thông thuận lợi, vừa nằm gần nguồn hàng, có đủ quỹ đất để đáp ứng nhu cầu phát triển lâu dài, có diện tích tối thiểu 05 ha đối với các cảng cạn hình thành mới theo quy định.
Ở góc độ ngành nông nghiệp, ông Trần Đình Luân, Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản cho biết, sau hơn ba năm thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW có không ít khó khăn, trở ngại như: Nhiều quy hoạch ngành quốc gia liên quan đến biển căn cứ vào quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ, tuy nhiên đến nay cả 2 quy hoạch mới chỉ bắt đầu quá trình xây dựng, trong khi thời gian các quy hoạch khác phải trình là tháng 12/2021; nhiều chương trình, đề án thực hiện Chiến lược biển đã được xây dựng nhưng nguồn lực triển khai thực hiện chưa nhiều; dự báo và điều tra nguồn lợi thủy sản còn nhiều hạn chế…
>>>Các định hướng vì một nền kinh tế biển bền vững
>>>Quảng Ninh: Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển trong tình hình mới
Thúc đẩy phát triển 6 ngành kinh tế biển
Với những tồn tại kể trên, Thứ trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi trường Lê Minh Ngân cho rằng, nhiệm vụ trước mắt cần tập trung thực hiện một số nội dung cụ thể như: Cần kiến tạo môi trường chính sách hợp lý cho nền kinh tế biển bền vững, kinh tế xanh để khai thác bảo vệ hiệu quả tài nguyên môi trường phát triển bền vững kinh tế biển, thúc đẩy thu hút, huy động được các nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển nhiều lĩnh vực kinh tế biển mới như điện gió ngoài khơi, nuôi, đánh bắt xa bờ, tập trung thăm dò, khai thác các loại khoáng sản chiến lược…; khẩn trương triển khai thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan đến biển và hải đảo…
Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh nhấn mạnh, việc thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW trong thời gian tới đòi hỏi các bộ, ngành, địa phương tiếp tục nỗ lực thực hiện các gỉai pháp, thứ nhất, tiếp tục tăng cường tuyên truyền, nâng cao và thống nhất nhận thức trong cả hệ thống chính trị và toàn xã hội về biển, đảo, về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển.
Thứ hai, về thể chế hoá các chủ trương của Đảng về phát triển bền vững kinh tế biển. Tập trung rà soát, đánh giá và đề xuất sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới hệ thống pháp luật về biển và hải đảo; từng bước thực hiện đầy đủ và toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trong Nghị quyết số 36-NQ/TW của Trung ương và Nghị quyết số 26/NQ-CP của Chính phủ, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ cho việc khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững kinh tế biển, bảo đảm tính thống nhất, khả thi, phù hợp với chuẩn mực luật pháp và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Xây dựng, trình duyệt và triển khai thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan đến biển và hải đảo, phát triển kinh tế biển, trọng tâm là quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; quy hoạch không gian biển quốc gia; quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ; quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia; Quy hoạch các khu vực biển, đảo cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Sớm phê duyệt ranh giới quản lý hành chính trên biển giữa các địa phương nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý biển của chính quyền địa phương cũng như tạo hành lang pháp lý để kiểm soát hiệu quả việc khai thác tài nguyên trong phát triển kinh tế biển.
Thứ ba, về tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển bền vững kinh tế biển. Trong đó, về tổ chức thực hiện công tác quản lý: Triển khai quản lý tổng hợp vùng bờ giữa các ngành, địa phương; bố trí ngân sách và nguồn lực nhằm hỗ trợ tăng cường năng lực và hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ quản lý tài nguyên, môi trường biển, hải đảo tại các địa phương có biển. Nghiên cứu, triển khai xây dựng bộ chỉ tiêu thống kê quốc gia về biển và hải đảo và bộ chỉ tiêu đánh giá quốc gia biển mạnh;...
Về công tác đầu tư cho phát triển bền vững kinh tế biển: Tiếp tục đầu tư phát triển, hiện đại hóa đô thị biển; phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại; kết nối phát triển kinh tế biển giữa các địa phương. Đầu tư phát triển năng lượng tái tạo trên các đảo phục vụ sản xuất, sinh hoạt, bảo đảm quốc phòng, an ninh; đầu tư xây dựng, khai thác điện gió, điện mặt trời và các dạng năng lượng tái tạo khác trên các vùng biển và hải đảo.
Quan tâm, hỗ trợ nguồn vốn để đầu tư khu neo đậu tránh trú bão và các dự án kết cấu hạ tầng ven biển, đảo của các địa phương có biển; phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng trong hoạt động nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản, đầu tư công nghệ, kỹ thuật hiện đại để nuôi trồng thủy sản xa bờ; Ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật trong khâu chế biến, bảo quản và xuất khẩu thủy sản, tạo động lực phát triển ngành thủy sản theo hướng tiềm năng, lợi thế. Đầu tư, khai thác có hiệu quả cảnh quan tự nhiên như vũng, vịnh bãi biển, đảo, cụm đảo...
Thứ tư, về bảo vệ môi trường và các hệ sinh thái biển. Chú trọng bảo vệ các hệ sinh thái biển, đảo, khoanh vùng, bảo vệ các khu, hệ sinh thái san hô, cỏ biển trên vùng biển. Lập kế hoạch phục hồi và phát triển các khu, hệ sinh thái, đa dạng sinh học bị suy giảm, kiểm soát chặt chẽ các nguồn thải có nguồn gốc từ đất liền và từ biển, đảo, nguồn thải từ hoạt động giao thông vận tải, dịch vụ du lịch, nguồn thải từ hoạt động nuôi trồng đánh bắt thủy sản. Tích cực khắc phục và tuân thủ các quy định về “chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo báo và không tuân thủ quy định” để sớm hoàn thành việc gỡ thẻ vàng IUU của Uỷ ban Châu Âu.
Thứ năm, về bảo đảm quốc phòng, an ninh, an toàn trên biển: Củng cố quốc phòng, an ninh; kiên quyết, kiên trì bảo vệ và giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Triển khai hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, củng cố môi trường hòa bình, ổn định và thuận lợi để phát triển.
Có thể bạn quan tâm
Phú Yên: Phát triển dịch vụ du lịch hài hoà với công nghiệp, nông nghiệp
18:07, 11/06/2022
Các định hướng vì một nền kinh tế biển bền vững
10:00, 14/05/2022
Quảng Ninh: Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển trong tình hình mới
02:05, 20/02/2022