Liên kết phát triển khu công nghiệp trục cao tốc phía Đông
Diễn đàn: Liên kết phát triển KCN trục cao tốc phía Đông do VCCI, UBND TP Hải Phòng chỉ đạo; Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp, Sở Kế hoạch Đầu tư Hải Phòng tổ chức ngày 31/8/2023 tại TP Hải Phòng.
>>[TRỰC TIẾP] Diễn đàn Liên kết phát triển khu công nghiệp trục cao tốc phía Đông
Ngày 21/04/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 57/NQ-CP về các nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện thể chế liên kết vùng kinh tế-xã hội trong đó nhấn mạnh vai trò chủ động liên kết của các tỉnh, thành phố.
Tiếp thu tinh thần của Nghị quyết 57, ngày 28/7/2022, VCCI và 4 tỉnh Quảng Ninh - Hải Phòng – Hải Dương – Hưng Yên đã ký kết Thoả thuận hợp tác kết nối kinh tế cao tốc phía đông, nhằm đẩy mạnh liên kết vùng, tăng cường phối hợp khai thác, phát huy tiềm năng, lợi thế của 4 địa phương dọc theo trục đường cao tốc Hà Nội-Hải Phòng - Móng Cái và hình thành cực tăng trưởng trong vùng đồng bằng sông Hồng.
Để hiện thực hóa Thỏa thuận kết nối kinh tế trục cao tốc phía Đông cũng như cung cấp bức tranh toàn cảnh về KCN, KCX các tỉnh trục cao tốc phía đông; Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp liên doanh, liên kết với nhau, khai thác hiệu quả nguồn lực đầu tư, cơ sở vật chất nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, tìm kiếm cơ hội xúc tiến đầu tư trong nước và quốc tế.
Đồng thời tranh thủ ý kiến đóng góp của các chuyên gia, các nhà khoa học, các tổ chức liên quan và ý kiến phản hồi, kiến nghị của các doanh nghiệp kịp thời bổ khuyết vào nhiệm vụ giải pháp của các thành phố, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển hạ tầng khu công nghiệp, tận dụng lợi thế của trục cao tốc phía đông và thế mạnh của từng địa phương.
Được sự chỉ đạo của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), UBND Tp Hải Phòng, UBND tỉnh Quảng Ninh, UBND tỉnh Hưng Yên, UBND tỉnh Hải Dương; Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp, Ban Pháp chế VCCI, Sở KHĐT Hải Phòng, Ban Quản lý KKT, KCN các tỉnh thành Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên phối hợp tổ chức Diễn đàn “Liên kết phát triển Khu công nghiệp trục cao tốc phía Đông” tại Trung tâm hội nghị TP Hải Phòng, 18 Hoàng Diệu, TP Hải Phòng, chiều 31/08/2023.
Tham dự hội nghị có: Ông Lê Tiến Châu - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư thành ủy Hải Phòng; Ông Nguyễn Văn Tùng - Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TP Hải Phòng; Ông Lê Anh Quân - Phó Chủ tịch thường trực UBND TP Hải Phòng; Ông Nguyễn Lê Huy - Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Hưng Yên; Ông Trần Văn Quân - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hải Dương.
Về phía VCCI có ông Phạm Tấn Công - Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).
Về phía các chuyên gia, diễn giả tham dự chương trình có: Bà Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương; Ông Nguyễn Hồng Quang - Phó Vụ trưởng Vụ Môi trường - Bộ Tài nguyên Môi trường; Ông Hoàng Trung Kiên - Trưởng Ban Quản lý KKT Quảng Ninh; Ông Nguyễn Trung Kiên - Trưởng ban Quản lý các KCN Hải Dương; Ông Phạm Trường Tam - Trưởng Ban Quản lý các KCN tỉnh Hưng Yên; Ông Bùi Ngọc Hải - Phó Trưởng ban Ban Quản lý KKT Hải Phòng; TS. Đặng Việt Dũng - Chủ tịch Tổng Hội Xây dựng Việt Nam; GS. Hà Tôn Vinh; Ông Trần Tiến Dũng; Ủy viên BCH Hiệp hội Logistics Việt Nam (VLA), Chủ tịch Hiệp hội Logistics Hải Phòng; Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI, thành viên Hội đồng khoa học của Ủy ban thường vụ Quốc hội cố vấn nội dung và điều phối Diễn đàn.
Về phía đơn vị thực hiện có: Bà Trần Thị Hải Yến - Phó Giám đốc Sở Kế hoạch Đầu tư Hải Phòng; Ông Nguyễn Linh Anh - Phó Tổng Biên tập phụ trách Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp.
Chương trình còn có sự tham gia của lãnh đạo của các sở ngành địa phương, cục hải quan các tỉnh, các Hiệp Hội doanh nghiệp trung ương và địa phương, các Ban Quản lý các khu kinh tế, khu công nghiệp thuộc 4 tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, hải Phòng, Quảng Ninh; và các Tập đoàn lớn, doanh nghiệp, doanh nhân tiêu biểu đại diện cho các công ty kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, doanh nghiệp sản xuất, logistics, nhà thầu xây dựng, các cơ quan thông tấn báo chí trung ương và địa phương.
Ban tổ chức xin cảm ơn sự đồng hành, hỗ trợ của: Frasers Property Vietnam, Công ty CP Đầu tư Xuân Cầu Lạch Huyên, Core5 Việt Nam, Tổ hợp khu công nghiệp DEEP C và các doanh nghiệp, nhà đầu tư đã đồng hành.
Chương trình hiện được truyền hình trực tiếp trên tạp chí điện tử Diễn đàn doanh nghiệp www.diendandoanhnghiep.vn, fanpage Diễn đàn Doanh nghiệp.
>>LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN KCN: Bước đi không thể thiếu để thực hiện công nghiệp hoá
BƯỚC ĐI KHÔNG THỂ THIẾU ĐỂ THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HOÁ
Phát biểu khai mạc Diễn đàn, ông Phạm Tấn Công, Chủ tịch VCCI chia sẻ, vào ngày 28/2/2023 tại Hưng Yên, lãnh đạo 4 địa phương Hải Phòng, Quảng Ninh, Hưng Yên, Hải Dương và VCCI đã họp cùng nhau bàn triển khai các nội dung của thỏa thuận kết nối kinh tế trục cao tốc phía đông theo đúng chủ trương về liên kết phát triển kinh tế của Chính phủ.
Một số nội dung cụ thể đã được triển khai và tới nay Diễn đàn “Liên kết phát triển khu công nghiệp trục cao tốc phía Đông” là một hoạt động tiếp nối trong các hoạt động liên kết của của địa phương trong khu vực.
“Nhưng như chúng ta đã biết “muốn đi xa phải đi cùng nhau”, vì vậy trong việc phát triển các khu công nghiệp (KCN), phát triển hạ tầng khu công nghiệp chúng ta cũng cần đi cùng nhau, cùng kết nối, liên kết. Đại hội XIII của Đảng đã đề ra mục tiêu đến năm 2045 nước ta trở thành quốc gia phát triển thu nhập cao, muốn thực hiện mục tiêu này, chúng ta phải thực hiện thành công Công nghiệp hoá – Hiện đại hoá đất nước”, Chủ tịch VCCI chia sẻ.
Đồng thời khẳng định, phát triển các KCN là bước đi không thể thiếu để thực hiện CNH. Thực tế thì các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển luôn coi khu công nghiệp là mô hình hiệu quả để phát triển công nghiệp và thu hút đầu tư.
Ông Phạm Tấn Công cho biết, bốn địa phương thuộc trục cao tốc phía Đông hiện có 87 khu kinhh tế (KKT) và KCN trong đó Hải Phòng 01 khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải và 25 KCN với tổng diện tích 12.702 ha. Hải Dương có 24 KCN tổng quy mô diện tích khoảng 4.508 ha. Trong khi đó, Quảng Ninh 5 KKT (gồm 3 KKT cửa khẩu, 2 KKT ven biển) và 16 KCN, với tổng diện tích khoảng 388.671 ha. Hưng Yên có 17 khu công nghiệp có diện tích là 4.395,43 ha.
Đáng nói, các KCN trên địa bàn 4 tỉnh trục cao tốc phía Đông đang sử dụng lượng lao động lớn. Hải Phòng chỉ tính riêng đến hết năm 2020, tổng số lao động trong các KCN là 157.967 người. Hải Dương sử dụng khoảng 102.014 người lao động.
Đặc biệt, các KCN có đóng góp lớn cho thu ngân sách và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương. Các dự án trong KCN, KKT đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều ngành nghề, sản phẩm, thị trường mới, chiếm gần 80% giá trị sản xuất công nghiệp, trên 70% kim ngạch xuất khẩu, góp phần tăng thu ngân sách, mở rộng thị trường, nâng cao sức cạnh tranh, khả năng hội nhập quốc tế.
Nhìn ra toàn quốc, theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong quy hoạch cả nước ta hiện có khoảng 563 khu công nghiệp (KCN) tại 61/63 tỉnh thành; có 397 KCN đã được thành lập và có 292 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng hơn 87,1 nghìn ha, diện tích đất công nghiệp khoảng hơn 58,7 nghìn ha.
Dữ liệu của Hiệp hội Bất động sản Việt Nam (VARs) cho thấy, tính đến hết quý I/2023, tỷ lệ lấp đầy các KCN cấp 1 trên cả nước tiếp tục xu hướng tăng, đạt mức trên 80%, trong đó khu vực phía Nam trung bình đạt 85%, dẫn đầu cả nước. Một số khu công nghiệp tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bắc Ninh, Bắc Giang, Bình Dương được lấp đầy gần như hoàn toàn.
Đặc biệt, trung bình các năm gần đây, vốn FDI vào các KCN, KKT chiếm khoảng 35 - 40% tổng vốn FDI đăng ký tăng thêm của cả nước, riêng với lĩnh vực chế biến, chế tạo thì tỷ lệ này có thể lên đến 70 - 80%. Tính đến hết năm 2022, tổng vốn đầu tư đăng ký vào các khu kinh tế (KKT), KCN tại Việt Nam đạt khoảng 340 tỷ USD”. Bên cạnh những đóng góp trực tiếp nêu trên, việc hình thành và phát triển khu công nghiệp đã có tác động lan tỏa đến các khu vực khác của nền kinh tế, việc phát triển mô hình khu công nghiệp đã góp phần tích cực trong việc hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, khuyến khích đổi mới thủ tục hành chính.
Có thể thấy, tỷ lệ lấp đầy của các KCN trong tiểu vùng hiện mới đạt khoảng 50%. Trong đó Hải Phòng cao nhất với tỷ lệ lấp đầy xấp xỉ 60% (tính đến đến 2021) với tỷ suất đầu tư trung bình đạt 9 triệu USD/ha; Hải Dương dù đã thu hút được 348 dự án (tính đến 30/6/2023) nhưng mới đạt tỷ lệ lấp đầy trung bình khoảng 51%; Quảng Ninh với 8 KCN đi vào hoạt động với tỉ lệ lấp đầy mới dừng ở con số 43% - thấp hơn so với bình quân cả nước, số KCN đang trong giai đoạn thực hiện các thủ tục đầu tư với tổng số vốn đạt 4.100 triệu USD và 40 dự án trong nước với số vốn là 21.000 tỷ đồng; Hưng Yên có 261 dự án đầu tư vào các KCN với vốn đầu tư đạt 4.434 triệu USD, tuy vậy tỉ lệ lấp đầy trong các KCN Hưng Yên mới đạt 47,8%.
Mặc dù đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, tuy nhiên, Chủ tịch VCCI thẳng thắn nhận định, việc phát triển khu công nghiệp thời gian qua cũng bộc lộ một số hạn chế. Cụ thể, quy hoạch phát triển khu công nghiệp chưa thể hiện rõ được tầm nhìn chiến lược, tổng thể.
Ở góc độ các tỉnh thuộc trục cao tốc phía Đông, công tác quy hoạch, đầu tư phát triển KCN tại 4 tỉnh, thành phố còn bộc lộ một số tồn tại. Cụ thể, mặc dù là vùng công nghiệp trọng điểm của cả nước tốc độ phát triển các KCN còn chậm, tỷ lệ lấp đầy của nhiều KCN còn thấp, khả năng cung cấp dịch vụ công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật của vài KCN còn hạn chế. Phần lớn các KCN đều khó khăn trong việc thu hút các nhà đầu tư phát triển KCN tầm cỡ, chuyên nghiệp, thiếu chủ động trong việc thu hút các nhà đầu tư thứ cấp. Ngành sản xuất công nghiệp tập trung thu hút, quốc gia thu hút khá giống nhau dẫn giảm sức hút, sức cạnh tranh. Là trục chính tập trung nhiều KCN nhưng Quốc lộ 5 hiện đang trong tình trạng cũ và xuống cấp. Liên kết vùng về chuỗi giá trị còn khá thấp, vùng nguyên liệu chưa có quy mô lớn. Ngoài ra, hiện nay quy mô đất công nghiệp, đặc biệt là đất sạch với diện tích lớn cho KCN còn khá hạn chế.
Đặc biệt, khả năng đáp ứng về kết cấu hạ tầng xã hội các công trình thiết chế phục vụ cho KCN, CCN như nhà ở công nhân, trường học, bênh viện và trung tâm nghiên cứu chưa được đầu tư đồng bộ, hầu hết đang sử dụng hạ tầng xã hội các khu dân cư và đô thị xung quanh.
Ngày 28/05/2022 Chính phủ đã ban hành Nghị định 35/2022 NĐ-CP “Quy định về Quản lý Khu Kinh tế, Khu Công nghiệp” đề ra “phương hướng xây dựng, phương án phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu kinh tế; đầu tư hạ tầng, thành lập, hoạt động, chính sách phát triển và quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp, khu kinh tế”. Nghị định đã định hướng xây dựng khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ, khu công nghiệp sinh thái, giảm tiêu hao năng lượng, hạn chế khí phát thải nhà kính, chú trọng trách nhiệm xã hội và được quản trị theo mô hình Chính phủ số. Đây chính là xu hướng mới trong phát triển các khu công nghiệp ở nước ta hiện nay.
Hơn nữa, theo quy hoạch phát triển công nghiệp trên địa bàn các tỉnh, thành trong trục cao tốc phía Đông đến năm 2030 dự kiến tổng số KCN trên địa bàn 4 tỉnh thành phố là 139 khu, tăng thêm 60 KCN. Tổng diện tích các KCN là 59.441ha, tăng thêm 23.930ha, tức là tăng gần gấp đôi. Hiện trạng các KCN đang được đưa vào khai thác thực tế là 15.913ha với tỷ lệ lấp đầy là 50,45%, tức là diện tích KCN thực sự đưa vào sản xuất là 8.028ha. Chủ tịch VCCI nhận định đây sẽ là một thách thức lớn trong việc tổ chức thực hiện quy hoạch nhằm đảm bảo khai thác có hiệu quả nguồn lực đất đai. Bên cạnh đó nguồn lao động và các điều kiện hạ tầng cần được xác định cụ thể để góp phần tăng hiệu quả đầu tư cho các KCN.
Chính vì vậy, tại Diễn đàn “Liên kết phát triển hạ tầng khu công nghiệp trục cao tốc phía Đông” này để nhằm từng bước hiện thực hóa Thỏa thuận kết nối kinh tế trục cao tốc phía Đông. “Đồng thời chúng ta sẽ cung cấp bức tranh toàn cảnh về đầu tư, phát triển hạ tầng KCN, CCN các địa phương trên trục cao tốc phía Đông, góp phần kết nối giữa các doanh nghiệp trong trong và ngoài nước tham gia đầu tư, phát triển KCN; qua đó thu hút các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh tại các KCN, Cụm công nghiệp”, ông Phạm Tấn Công nhấn mạnh.
Đồng thời mong muốn rằng, từ những gợi mở, đề xuất của nhà đầu tư, doanh nghiệp trong việc phát triển và kết nối hạ tầng các khu công nghiệp cũng như những kiến nghị về chính sách tới từng lãnh đạo tỉnh thành tại Diễn đàn, sẽ có nhiều giải pháp để phát triển và cộng hưởng được những thế mạnh riêng có của từng khu công nghiệp, của từng địa phương.
“Chúng tôi hy vọng rằng, sau Diễn đàn, việc phát triển, liên kết các KCN trên trục cao tốc phía Đông sẽ là mô hình mẫu trên cả nước. Đồng thời cũng hiện thực hóa được sáng kiến kết nối trục cao tốc phía Đông từ ý tưởng đến thực tiễn”, Chủ tịch VCCI nhấn mạnh.
>>LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN KCN: Tận dụng thế mạnh phát triển hạ tầng khu công nghiệp
TẬN DỤNG THẾ MẠNH PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG KHU CÔNG NGHIỆP
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Nguyễn Văn Tùng - Chủ tịch UBND TP Hải Phòng cho biết, nằm trong vùng kinh tế trục cao tốc phía Đông, 4 địa phương là thành phố Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên có vị trí địa lý thuận lợi để phát triển kinh tế. Trong những năm qua, 4 địa phương đều thành công trong thu hút đầu tư và phát triển, trở thành vùng kinh tế tăng trưởng quan trọng của cả nước.
Để mở rộng không gian phát triển và tăng cường liên kết vùng, Chủ tịch UBND TP Hải Phòng cho biết, ngày 28/7/2022 tại TP Hạ Long, lãnh đạo 4 địa phương và VCCI đã cùng nhau ký kết thỏa thuận Kết nối trục cao tốc phía Đông. Thông qua đó, các địa phương có điều kiện tiếp cận, phát huy đầy đủ những tiềm năng, lợi thế của mình để cùng nhau phát triển.
Với TP Hải Phòng, ông Nguyễn Văn Tùng - Chủ tịch UBND TP nhấn mạnh: được xác định là cực tăng trưởng của tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc Bộ, TP có nhiều lợi thế trong liên kết và phát triển kinh tế vùng. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn TP Hải Phòng giai đoạn 2021-2022 đạt bình quân gần 13%/năm, gấp 2 lần tốc độ tăng trưởng của cả nước. 6 tháng đầu năm 2023, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm của TP đạt gần 10%. Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh xếp thứ 3 và chỉ số Cải cách hành chính xếp thứ 2 trong 63 tỉnh, thành phố.
Hiện nay, trên địa bàn TP có khu kinh tế Đình Vũ Cát Hải với trên 22,5 ngàn ha và 14 khu công nghiệp với trên 6.000 ha, tỷ lệ lấp đầy bình quân đạt trên 60%, thu hút được 38 tỷ USD, chủ yếu của các nhà đầu tư đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc và tập đoàn Vingroup.
Chủ tịch UBND TP Hải Phòng đánh giá: mặc dù thu hút đầu tư của 4 địa phương tương đối tốt nhưng vẫn còn một khoảng cách so với các trung tâm kinh tế lớn khác. Chất lượng du lịch và tính chuyên nghiệp chưa đồng bộ, chưa tạo thành chuỗi logicstic liên hoàn. Do vậy, Diễn đàn “Liên kết phát triển Khu công nghiệp trục cao tốc phía Đông”, theo ông Nguyễn Văn Tùng giúp 4 địa phương trước hết là khắc phục khó khăn cục bộ và liên kết các thế mạnh của từng địa phương; khắc phục tình trạng biệt lập trong hoạch định và thực hiện chính sách các địa phương.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh kết nối hạ tầng giao thông trong vùng; chia sẻ kinh nghiệm trong quản lý nhà nước, nhất là trong việc phát triển kết nối hạ tầng các khu công nghiệp; giải quyết những bất cập thu hút đầu tư, quản lý tài nguyên môi trường và các vấn đề xã hội giữa các địa phương.
>>LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN KCN: Cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất
CẦN SỚM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ĐẢM BẢO SỰ ĐỒNG BỘ, THỐNG NHẤT
Chia sẻ tại Diễn đàn, TS Đặng Việt Dũng – Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam cho hay, vùng Đồng bằng sông Hồng có lịch sử phát triển lâu đời gắn với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển của cả nước. Vùng Đồng bằng sông Hồng có 11 tỉnh, thành phố gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình. Trong vùng có Thủ đô Hà Nội, là trung tâm đầu não về chính trị, kinh tế, văn hóa, đào tạo và khoa học công nghệ của cả nước.
Vùng Đồng bằng sông Hồng là cửa ngõ ở phía biển Đông với thế giới và là một trong những cầu nối trực tiếp giữa hai khu vực phát triển năng động là khu vực Đông Nam Á và Đông Bắc Á. Đây cũng được xem là cửa ngõ phía Bắc của nước ta và ASEAN về kết nối phát triển kinh tế, thương mại với Trung Quốc - thị trường rộng lớn nhất thế giới và ngược lại; có hệ thống hạ tầng giao thông kết nối đồng bộ và tốt nhất cả nước về cả đường bộ, đường biển, đường sông, đường hàng không, đường sắt với 3 tuyến hành lang kinh tế đi qua.
Theo ông Dũng, tổ chức không gian phát triển Vùng Đồng bằng sông Hồng theo hướng hình thành 2 tiểu vùng, trong đó tiểu vùng Bắc Đồng bằng sông Hồng (còn gọi là vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - Vùng Kinh tế trọng điểm bắc bộ), gồm 7 tỉnh, thành phố: TP. Hà Nội, tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh và TP. Hải Phòng.
Các địa phương gồm Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng và Quảng Ninh nằm trên trục cao tốc nối Hà Nội - Hải Phòng - Móng Cái. Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh là 03 cực tăng trưởng trong tam giác phát kinh tế.
“Tăng trưởng kinh tế bình quân của Vùng Đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2005 - 2020 đạt 7,94%/năm, cao hơn mức bình quân cả nước; quy mô kinh tế tăng nhanh, năm 2020 đạt 2,37 triệu tỉ đồng, chiếm 29,4% GDP cả nước; GRDP bình quân đầu người đạt 103,6 triệu đồng/năm, gấp 1,3 lần bình quân cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ giữ vai trò trụ cột. Thu hút đầu tư nước ngoài tăng mạnh, Đô thị phát triển nhanh, tỉ lệ đô thị hoá trên 41%. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tập trung đầu tư và phát triển khá đồng bộ, hiện đại, nhất là hạ tầng giao thông; phát huy tốt vai trò của các hành lang, vành đai kinh tế. Quản lý, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường được chú trọng; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu”, ông Dũng chia sẻ.
Cũng theo ông Dũng, vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có quy mô kinh tế đứng thứ 2 cả nước, chiếm 35,52% GRDP của 4 vùng KTTĐ, chiếm gần 32% GDP của cả nước, thu ngân sách chiếm trên 31% của cả nước, xuất khẩu hàng năm chiếm 32% của cả nước; cơ cấu kinh tế dịch chuyển đúng hướng. Ngành công nghiệp - xây dựng của vùng tiếp tục là trụ cột tăng trưởng của vùng, thu hút được các dự án đầu tư đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) quy mô lớn, quan trọng có hàm lượng công nghệ cao, giá trị xuất khẩu lớn trong lĩnh vực điện, điện tử, điện thoại di động, lắp ráp ô tô, đóng tàu, dệt may; bước đầu hình thành ngành công nghiệp phụ trợ trong các ngành này tại Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Phòng.
Từ năm 2017, tất cả các tỉnh, thành phố thuộc Vùng đều có điều tiết về ngân sách trung ương, đóng góp quan trọng vào nguồn thu ngân sách của cả nước và là vùng kinh tế trọng điểm duy nhất có tất cả các địa phương đều có điều tiết về ngân sách trung ương. Tính đến năm 2018, toàn vùng có 44 khu công nghiệp, 02 khu kinh tế đang hoạt động và thu hút trên 8.444 dự án FDI, với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 91,061 tỷ USD, bằng 36,16% về số dự án và 26,8% tổng vốn đầu tư đăng ký so với cả nước.
Nhiều công trình, dự án giao thông lớn, quan trọng có tác động lan tỏa, thúc đẩy sự phát triển của Vùng đã được triển khai và đưa vào sử dụng như tuyến đường bộ cao tốc như Hà Nội - Hải Phòng (105,5km); Hạ Long - Hải Phòng (25km), hình thành hành lang kinh tế, các trục chính kết nối các tỉnh trong Vùng và các vùng khác trong cả nước, như việc nâng cấp Cảng hàng không quốc tế Cát Bi (Hải Phòng), đầu tư xây dựng mới Cảng hàng không Vân Đồn (Quảng Ninh). Đầu tư mở rộng cảng Đình Vũ, cảng Cái Lân, cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng tại Lạch Huyện…. đã góp phần phát triển dịch vụ logistics và tăng khả năng cạnh tranh loại hình này với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Toàn vùng có 27 trung tâm logistics, chiếm 55% tổng số logistics cả nước, tập trung chủ yếu tại Bắc Ninh (14), Hà Nội (11), Hải Phòng (2).
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực, vị chuyên gia này cũng cho biết, kinh tế của Vùng Đồng bằng sông Hồng nói chung và Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ nói riêng còn một số tồn tại: tăng trưởng kinh tế của vùng chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và còn phụ thuộc nhiều vào vốn và lao động; trình độ phát triển kinh tế của các địa phương không đồng đều; chuyển dịch cơ cấu của các ngành kinh tế còn chậm; Cơ cấu thu ngân sách ở một số địa phương chưa bền vững, phụ thuộc vào nguồn thu của một số dự án FDI quy mô lớn;
Khu vực công nghiệp chủ yếu phát triển chiều rộng, mới dừng lại ở gia công, lắp ráp với giá trị gia tăng chưa cao, thâm dụng lao động, đóng góp của khoa học kỹ thuật, năng suất các yếu tố tổng hợp còn hạn chế. Thiếu gắn kết giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước, phần lớn các dự án FDI thường tập trung vào các lĩnh vực, các ngành có nhiều ưu đãi đầu tư, nhân công giá rẻ;
Cấu trúc không gian phát triển của Vùng còn hình thành thụ động, chờ thời cơ, chưa rõ nét theo định hướng; công nghiệp phát triển chưa đồng đều, phần lớn tập trung chủ yếu tại Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh;…
Để giải quyết các thực tế đã nêu, TS Đặng Việt Dũng cho rằng, cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong trách nhiệm quản lý, đầu tư giữa các bộ, ngành, địa phương về loại hình khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, giữa các ban quản lý và địa phương trong việc đảm bảo đời sống, sinh hoạt cho lực lượng lao động. Hoàn thiện các quy định phân công thống nhất giữa các tỉnh, thành phố trong vùng Kinh tế trọng điểm Bắc bộ để đảm bảo công tác điều hành quản lý khu công nghiệp thông suốt, hiệu quả.
Bên cạnh đó, vị chuyên gia này cũng cho rằng, yêu cầu về chuyển đổi mô hình phát triển các KCN từ mô hình hiện nay sang các mô hình KCN chuyên biệt, các mô hình Khu Công nghiệp sinh thái, KCN đô thị là hướng phát triển tất yếu. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi không chỉ cần thời gian, nguồn vốn mà trên hết rất cần sự đổi mới trong tư duy quy hoạch phát triển KCN, sự quyết tâm khi tổ chức thực hiện và nỗ lực của các đơn vị. Vì vậy, Nhà nước cũng cần có những quy định về lộ trình chuyển đổi để đảm bảo sự công bằng và phát triển bền vững trong tương lai.
>>LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN KCN: Hướng tới nền kinh tế tuần hoàn
HƯỚNG TỚI NỀN KINH TẾ TUẦN HOÀN
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Nguyễn Hồng Quang - Phó Vụ trưởng vụ Môi trường (Bộ Tài Nguyên Môi Trường) đánh giá cao sáng kiến ký kết thỏa thuận kết nối kinh tế trục cao tốc phía Đông, hình thành liên kết kinh tế 4 địa phương giữa Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương và Hưng Yên.
Đối với công tác bảo vệ môi trường thời gian qua, Bộ Tài Nguyên Môi Trường đã ghi nhận và đánh giá rất cao sự nỗ lực, quan tâm của các địa phương. Về công tác bảo vệ môi trường, có một số kết quả đã được các khu công nghiệp triển khai, thực hiện, đảm bảo đúng, tuân thủ quy định pháp luật, đặc biệt Luật Bảo vệ môi trường 2020.
Ông Quang nhận xét, hiện nay hầu hết các khu công nghiệp đều có trạm xử lý nước thải, về cơ bản gần như đạt 100%. Các khu công nghiệp đang hoạt động, các doanh nghiệp trong khu công nghiệp đều có hệ thống thu gom thoát nước mưa tách riêng với nước thải, đảm bảo tuân thủ theo quy định pháp luật.
Cùng với đó là hệ thống giám sát chất lượng môi trường của khu công nghiệp, từng bước hoàn thiện các số liệu về quan trắc online, quan trắc tự động đều được truyền dẫn về Sở Tài Nguyên Môi Trường của địa phương và về cơ bản đạt xấp xỉ 100%. Đối với các chương trình quan trắc chất lượng môi trường được triển khai thường xuyên, các kết quả đã góp phần cải thiện chất lượng môi trường của khu công nghiệp.
Bên cạnh kết quả đạt được, còn có một số vấn đề liên quan đến việc đầu tư dự án các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ trong khu công nghiệp và một số nội dung liên quan đến chuyển giao về mặt công nghệ. Đâu đó còn có việc nhập khẩu các công nghệ sản xuất lạc hậu, chưa đảm bảo việc sản xuất thân thiện với môi trường, hoặc tiêu tốn năng lượng phát sinh chất thải lớn.
“Chúng tôi đã thấy nỗ lực của các địa phương trong quá trình tham gia vào công tác bảo vệ môi trường đối với khu công nghiệp. Chúng tôi mong muốn các địa phương tiếp tục quan tâm xây dựng, ban hành cơ chế chính sách phù hợp, để hỗ trợ các khu công nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, thu hút đầu tư và tận dụng được cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; góp phần phát triển theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn trong khu công nghiệp; Coi đây là yếu tố then chốt để nâng cao năng lực cạnh tranh và đảm bảo phát triển bền vững”, ông Nguyễn Hồng Quang nhấn mạnh.
Đề xuất một số nhiệm vụ chính để công tác bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp ngày càng được hoàn thiện được tốt hơn, vị Phó Vụ trưởng vụ Môi trường (Bộ Tài Nguyên Môi Trường) cho biết:
Thứ nhất, khi thành lập mới các khu công nghiệp, các cụm công nghiệp thì cần phải tiếp tục coi trọng vấn đề môi trường, bảo đảm các tiêu chí của một khu công nghiệp sinh thái; Có cơ chế chính sách phù hợp hỗ trợ các doanh nghiệp trong khu công nghiệp tham gia vào triển khai các biện pháp về sản xuất sạch hơn, chủ động kiểm soát chặt chẽ quá trình công nghiệp hóa theo hướng thân thiện môi trường, thực hiện xanh hóa các ngành công nghiệp sản xuất và thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp xanh, công nghệ cao; Hạn chế tiến tới sản xuất công nghiệp rời lẻ ở ngoài khu công nghiệp, cụm công nghiệp; Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển ngành công nghiệp tái chế, hình thành các khu công nghiệp tái chế.
Thứ hai, là ưu tiên tập trung nguồn lực đầu tư hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp như: hệ thống thu gom thoát nước mưa, hệ thống xử lý nước thải tập trung, bảo đảm xử lý nước thải đạt quy chuẩn tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường. Đầu tư và xây dựng hệ thống quan trắc nước thải tự động, liên tục đẩy nhanh việc đầu tư xây dựng đưa vào hoạt động các hệ thống xử lý nước thải tập trung tại khu công nghiệp.
Đối với các khu công nghiệp thành lập mới, kiên quyết không đưa vào hoạt động các khu công nghiệp chưa hoàn thiện hệ thống xử lý nước thải tập trung, bảo đảm đến năm 2025 thì đạt tỷ lệ là 100% các khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung và các chất thải phải được xử lý đảm bảo đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn bảo vệ môi trường.
Thứ ba, phân loại các dự án đầu tư mới theo mức độ tác động đến môi trường ngay từ quá trình xem xét phê duyệt chủ trương đầu tư, để xem xét trong suốt vòng đời hoạt động của dự án. Đặc biệt chú trọng đối với nhóm dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường ở mức độ cao. Điều này cần được xem xét thận trọng hơn đối với các khu công nghiệp tiến tới là khu công nghiệp sinh thái.
Thứ tư, kiểm soát ô nhiễm môi trường từ các cơ sở thứ cấp trong khu công nghiệp thông qua các giấy phép môi trường dựa trên kết quả đánh giá tự động môi trường, quy hoạch bảo vệ môi trường và khả năng chịu tải về môi trường, cùng các quy chuẩn kỹ thuật môi trường; Tăng cường kiểm tra, thanh tra phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các khu công nghiệp, hoặc các cơ sở sản xuất dịch vụ trong khu công nghiệp. Thường xuyên tổ chức đào tạo tập huấn nâng cao chuyên môn nghiệp vụ về bảo vệ môi trường cho các bộ phận chuyên môn tại Ban quản lý các khu công nghiệp.
Thứ năm, tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức người tiêu dùng với các sản phẩm sạch, bảo vệ môi trường để tăng nhận thức xã hội về sản phẩm này. Từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia xây dựng khu công nghiệp sinh thái, sản xuất sản phẩm xanh. Tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp về công tác bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường nói riêng ở các khu công nghiệp trong từng địa phương.
“Với ý chí và quyết tâm cao, sự chung tay của cộng đồng, nỗ lực của các Ban quản lý, địa phương và các đối tác phát triển, hy vọng thời gian tới chúng ta sẽ có những thành công hơn nữa trong việc hướng tới nền kinh tế dựa vào khả năng cung ứng của hệ sinh thái kinh tế tuần hoàn, hoàn thành các mục tiêu của các hệ sinh thái”, ông Nguyễn Hồng Quang bày tỏ.
TIẾP CẬN HỆ SINH THÁI VÀ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
Phát biểu tại Diễn đàn, TS. Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TƯ (CIEM) cho rằng, trục phát triển dọc cao tốc phía Đông có nhiều điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển mô hình vùng “Đô thị sáng tạo” với hệ thống các KCN dọc 4 tỉnh/thành phố Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên. Sự kết nối vùng “Đô thị sáng tạo” này sẽ tận dụng hiệu quả các nguồn lực, tạo sức mạnh tổng hợp, lan tỏa trong bối cảnh mới; tạo ra không gian phát triển rộng lớn, năng động với việc kết hợp khai thác, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của các địa phương trên trục, tối đa hóa năng suất của chuỗi cung ứng địa phương. Các KCN dọc trục sẽ tận dụng lợi thế của nhau, tận dụng lợi thế của chuỗi kết nối giao thông quan trọng với một đầu là thủ đô Hà Nội và một đầu là cửa khẩu Móng Cái, giao thương với thị trường Trung Quốc.
Trên thực tế, tại 4 tỉnh trục cao tốc phía Đông, các KCN đang ở giai đoạn chuyển tiếp từ giai đoạn 1 sang giai đoạn 2, tức là chuyển dần từ tận dụng số lượng lớn yếu tố đầu vào, như: vốn, lao động, tài nguyên sang giai đoạn sử dụng hiệu quả các yếu tố đầu vào. Bên cạnh đó, nhiều KCN đã chuyển sang giai đoạn 2, giai đoạn đạt ngưỡng hiệu quả do yếu tố đầu vào. Tại các tỉnh, thành có tỉ lệ đô thị hóa cao, nhiều KCN bước sang giai đoạn “hậu công nghiệp”, giai đoạn “dịch vụ hóa công nghiệp” hay giai đoạn đổi mới sáng tạo.
Do vậy, TS. Trần Thị Hồng Minh nhấn mạnh, để thích ứng với xu hướng chuyển đổi số, khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng đang diễn ra, việc phát triển công nghiệp bằng các mô hình KCN truyền thống không còn phù hợp, đổi mới sáng tạo để thích ứng là yêu cầu không thể khác. Tiếp cận sinh thái và đổi mới sáng tạo không chỉ là mô hình phát triển phù hợp cần hướng tới mà còn là mô hình tất yếu và then chốt đối với các KCN để nâng cao năng lực cạnh tranh, đảm bảo phát triển bền vững cho từng KCN, từng địa phương; tạo lực kéo cho thu hút đầu tư FDI.
Mô hình KCN sinh thái chỉ thực sự phát huy vai trò tích cực đối với với chiến lược phát triển bền vững của quốc gia khi được nhân rộng trên cả nước, với các hỗ trợ về chính sách, công nghệ, tài chính, thông tin và cơ chế kết nối chặt chẽ giữa các cơ quan trong và ngoài nước. Bên cạnh các chính sách hiện hữu, cần có thêm các hướng dẫn về quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật của các Bộ ngành và hướng dẫn về kỹ thuật từ các chuyên gia trong nước, quốc tế, đặc biệt đối với các mạng lưới cộng sinh công nghiệp và giải pháp kinh tế tuần hoàn. Đồng thời, cũng cần bổ sung các chính sách ưu đãi về tài chính (như miễn, giảm thuế, tiền thuê đất, ưu tiên vay vốn tín dụng) cho các KCN, khu sinh thái, doanh nghiệp sinh thái để khuyến khích doanh nghiệp tự thực hiện việc chuyển đổi và xây dựng mới KCN sinh thái.
Đối với các địa phương trên trục cao tốc phía Đông, TS. Trần Thị Hồng Minh cho rằng, các địa phương này có thể chia sẻ và trao đổi những mô hình mới với các cơ chế chính sách phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng đất, thu hút đầu tư và tận dụng được những thành tựu trong bối cảnh mới và của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển dịch dần sang cách tiếp cận sinh thái và đổi mới sáng tạo để phát triển bền vững song hành với lợi ích kinh tế và trách nhiệm với cộng đồng, xã hội.
Để hiện thực hóa mô hình này, các KCN cần chuyển dần từ thâm dụng lao động/đất đai/nguyên liệu đầu vào - vốn đang dần mất ưu thế và không còn phù hợp với xu thế, bối cảnh mới - sang các KCN quy tụ nhiều doanh nghiệp có năng lực đổi mới sáng tạo, tận dụng thành quả tri thức tại đô thị lớn và dẫn dắt như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Quảng Ninh – TS. Minh chia sẻ.
Trong bối cảnh chuyển đổi số, kinh tế chia sẻ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững là xu hướng diễn ra mạnh mẽ; tiêu dùng bền vững, sức khỏe người lao động trở thành vốn quý của xã hội và chất lượng sống con người ngày càng được quan tâm, phát triển KCN sinh thái đang là mục tiêu của các nước công nghiệp trên thế giới, tiếp cận sinh thái và đổi mới sáng tạo để đáp ứng yêu cầu được xem như con đường tất yếu để bảo đảm tính cân bằng sinh thái trong phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Trước đó, nhận thức được việc “xanh hóa” các đầu tàu sản xuất là các KCN trở thành yêu cầu tất yếu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với UNIDO triển khai thí điểm mô hình chuyển đổi KCN truyền thống sang KCN sinh thái tại 4 KCN gồm: KCN Trà Nóc 1&2 (Cần Thơ), KCN Hòa Khánh (Đà Nẵng), KCN Khánh Phú và KCN Gián Khẩu (Ninh Bình). Kết quả thực hiện thí điểm cho thấy việc sử dụng tài nguyên hiệu quả, sản xuất sạch hơn, tận dụng nguyên liệu đầu vào tốt hơn là những yếu tố rõ ràng nhất đối với các KCN được thí điểm chuyển đổi sang mô hình KCN sinh thái.
Một trong những định hướng đối với các doanh nghiệp trong KCN sinh thái là cộng sinh công nghiệp, theo đó, các doanh nghiệp cùng áp dụng các giải pháp sử dụng hiệu quả tài nguyên, sản xuất sạch hơn để đạt kết quả tiết kiệm nguyên liệu, vật liệu, nước, năng lượng, hóa chất, chất thải, phế liệu và giảm phát thải ra môi trường. Do vậy, việc nhân rộng mô hình KCN sinh thái sẽ là cách thức để hiện thực hóa mục tiêu phát triển xanh và bền vững, phát triển kinh tế theo chiều sâu, giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ môi trường.
Với vị thế các đô thị lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh,… nói riêng và các tỉnh thành khác của Việt Nam nói chung, đất đai là tài nguyên khan hiếm hoặc đang trở nên khan hiếm, nếu muốn duy trì nền công nghiệp bền vững trong tương lai, thì mô hình KCN sinh thái trong 10-20 năm tới phải là mô hình kiểu mẫu. Thực tế trong giai đoạn 2020-2023, Chính phủ Thuỵ Sỹ đang hỗ trợ 3 KCN tại TP HCM, Hải Phòng và Đồng Nai chuyển đổi sang mô hình KCN sinh thái theo khung quốc tế, hướng tới nhân rộng mô hình này trên cả nước.
Cá nhân tôi cho rằng, bên cạnh các chính sách hiện hữu, cần có thêm các hướng dẫn về quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật của các Bộ ngành và hướng dẫn về kỹ thuật từ các chuyên gia trong nước, quốc tế, đặc biệt đối với các mạng lưới cộng sinh công nghiệp và giải pháp kinh tế tuần hoàn. Đồng thời, cũng cần bổ sung các chính sách ưu đãi về tài chính (như miễn, giảm thuế, tiền thuê đất, ưu tiên vay vốn tín dụng) cho các KCN, khu sinh thái, doanh nghiệp sinh thái để khuyến khích doanh nghiệp tự thực hiện việc chuyển đổi và xây dựng mới KCN sinh thái – TS. Trần Thị Hồng Minh nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, TS. Minh còn có lưu ý, đó là vấn đề phát triển KCN nói chung và KCN sinh thái nói riêng phải đóng góp trực tiếp và mạnh mẽ hơn trong tăng trưởng xanh, giảm phát thải và đặc biệt là phát huy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Các KCN phải là nơi thuận lợi, thử nghiệm các không gian phát triển mới. Điểm quan trọng là duy trì sự kết nối và tránh để các KCN lặp lại theo mô hình sao chép của nhau, dẫn tới sự cạnh tranh quá mức thay vì sự hợp tác hiệu quả.
Điều phối viên thảo luận, ông Đậu Anh Tuấn – Phó Tổng thư ký, Trưởng Ban pháp chế VCCI cho biết, đây là một phiên thảo luận với rất nhiều thông tin từ thực tiễn. Phiên thảo luận có 3 nhóm diễn giả quan trọng gồm các chuyên gia, cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp hạ tầng KCN và hiệp hội các doanh nghiệp.
KINH NGHIỆM KẾT NỐI CÁC KCN Ở NƯỚC NGOÀI VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Chia sẻ tham luận với chủ đề “Kinh nghiệm kết nối các KCN ở nước ngoài và bài học cho Việt Nam”, Giáo sư Hà Tôn Vinh thông tin, tại sao tôi lại chọn Dubai là hình mẫu cho các kinh nghiệm đối với Việt Nam bởi ở Dubai có 7 tiểu Vương quốc Ả Rập (UAE). Trong đó, 4 tiểu vương rất năng động giống như 4 tỉnh, thành phố của Việt Nam gồm: Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh. 4 KCN của Dubai bắt đầu từ các tiểu vương này và trở thành động lực, nhân tố để phát triển.
Năm 1971, UAE được thành lập năm 1971. Đến năm 1968, UAE chỉ có 180,000 dân. Nhưng đến năm 2023, UAE có khoảng 10 triệu dân, GDP là 520 tỷ đô la, GDP đầu người là 45.000 đô la.
Hiện tại, 7 tiểu Vương Quốc Ả Rập (UAE) đã xây dựng và vận hành 46 KCN với hơn 40 ngành kinh doanh gồm: KCN ở sân bay, trung chuyển hàng hoá, KCN Y Tế, nghiên cứu & sản xuất dược phẩm, KCN hoa và nông sản phẩm, KCN Internet, KCN vàng bạc, kim cương, đá quý, KCN Thiết kế thời trang, KCN Giáo dục, KCN sản xuất xe ô tô, KCN may mặc, thể thao...
GS Hà Tôn Vinh cho biết, chỉ sau hơn 30 năm, các KCN – KKT ở UAE đã trở thành một trong những yếu tố chính cho sự phát triển kinh tế của 7 Tiểu Vương Quốc Ả Rập. Ban đầu, các khu này được thành lập để giúp đa dạng hoá nên kinh tế lệ thuộc vào dầu hoả, thu hút các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Đến năm 2020, vùng này đã trở thành một trong những vùng kinh tế, thương mại hấp dẫn nhất toàn cầu. Từ lúc thành lập, JAFZA chỉ có 19 công ty tham gia vào KCN, đến nay khu này đã có hơn 8000 công ty kinh doanh. Dựa vào các chính sách ưu đãi, nhiều KCN đã thu hút được các tập đoàn đa quốc gia vào các KCN để thiết lập các khu chuyên ngành như: công nghệ, truyền thông, thiết kế, thể thao, giáo dục: CNN, MBC, Microsofft, Siemens. KCN Ras Al Khaiman (RAKEZ) cách trung tâm 1 giờ xe đã thu hút được hơn 15.000 công ty kinh doanh trong 50 ngành khác nhau. Đó là sự khác biệt của các KCN của tiểu vương quốc Ả Rập.
“Các KCN của Dubai theo kinh nghiệm của tôi họ làm rất nhiều, mỗi KCN họ làm một thứ. Còn tại Việt Nam, chúng ta có khu công nghiệp tổng hợp nhiều thứ” – vị GS nói.
Cũng theo ông Hà Tôn Vinh, ngoài Dubai, ở Mỹ, người Mỹ đi đâu cũng có phòng Thương mại, cũng giống như Việt Nam có Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Ở Việt Nam hiện chưa có KCN của Mỹ, chúng ta nên chăng có KCN của Mỹ (không hoàn toàn 100% của Mỹ). Nếu chúng ta có KCN của Mỹ thì sẽ tạo được tiếng vang cho Hải Phòng. Chúng ta phải làm gì để thay đổi, chuyển đổi, thích ứng được với hoàn cảnh để trở thành các KCN trọng điểm. Trong cuộc cách mạng internet, chúng ta không thể làm gì mà không có internet để chuyển đổi số, kinh tế số. Các KCN, CCN của chúng ta phải thay đổi và khởi nghiệp. Khởi nghiệp không chỉ dành cho sinh viên mà khởi nghiệp là cho doanh nghiệp khởi nghiệp, cao hơn nữa là chính quyền khởi nghiệp, chính phủ khởi nghiệp và chúng ta là đất nước khởi nghiệp.
TĂNG CƯỜNG HIỆU SUẤT VÀ TÍNH LIÊN KẾT CỦA CÁC KCN
Ông Hoàng Trung Kiên - Trưởng Ban quản lý Khu kinh tế và các khu công nghiệp tỉnh Quảng Ninh cho biết: là địa phương địa đầu Đông Bắc của Tổ quốc, Quảng Ninh là cửa ngõ giao thương quan trọng và sôi động của ASEAN với khu vực Đông Bắc Á. Quảng Ninh cũng là một trong số ít địa phương hiện có đồng thời cả 3 mô hình với khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển và khu kinh tế cửa khẩu. Đây là lợi thế của tỉnh để phối hợp với các địa phương trong trục cao tốc phía Đông phát triển khu công nghiệp.
Để phát huy thế mạnh của các địa phương, tăng cường hiệu suất và tính liên kết của các khu công nghiệp, khu kinh tế trục cao tốc phía Đông, ông Hoàng Trung Kiên cho rằng, các địa phương cần sớm đề xuất với các cơ quan chức năng xây dựng và ban hành Luật về khu công nghiệp, khu kinh tế để tạo hành lang pháp lý cho việc thành lập và phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế. Đồng thời, đề xuất các cơ chế, chính sách đặc thù về phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế để đảm bảo sự liên kết, sự kết nối phát triển chung cho cả 4 tỉnh.
Thứ hai, các địa phương phối hợp rà soát quy hoạch các khu công nghiệp, khu kinh tế từ đó xây dựng định hướng phát triển các ngành nghề phù hợp với tiềm năng lợi thế của mình tạo thành mối liên kết cộng sinh công nghiệp.
Thứ ba, các tỉnh trong trục cao tốc phía Đông cần tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư chung. Trên cơ sở định hướng quy hoạch và ngành nghề thu hút đầu tư của các KCN, KKT, các địa phương phối hợp xây dựng và ban hành bộ tài liệu xúc tiến đầu tư vào các KCN, KKT chung đảm bảo hiệu suất, tính liên kết của các khu công nghiệp, khu kinh tế.
Cuối cùng, với định hướng phát triển các khu công nghiệp với quy mô gấp 3 hiện nay, vấn đề quan trọng cần được quan tâm là nguồn nhân lực. Các địa phương cần xây dựng cơ sở dữ liệu về nguồn nhân lực chung; rà soát nhu cầu về lao động của các KCN, KKT trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch và phương án đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu và đặt hàng cụ thể đối với từng cơ sở đào tạo nghề của mỗi địa phương để tránh tình trạng vừa thừa vừa thiếu lao động. Ngoài ra, cần đảm bảo quyền lợi, thu nhập và điều kiện sống, sinh hoạt của người lao động như cách Quảng Ninh thực hiện chính sách về nhà ở cho công nhân.
KHÔNG GIAN PHÁT TRIỂN CÓ NHIỀU TẦNG GIÁ TRỊ
Chia sẻ tại Diễn đàn, ông Bùi Ngọc Hải, Phó Trưởng ban Quản lý các KKT Hải Phòng cho biết, “chúng tôi đánh giá cao sáng kiến thực hiện liên kết dọc theo trục cao tốc phía Đông. Tôi cho rằng, đây không chỉ là cao tốc về mặt vật lý mà là trục cao tốc về thịnh vượng, về đầu tư, về thông tin. Đây là không gian phát triển có nhiều tầng giá trị. Với những mô hình sản xuất mới kinh tế mới kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn đã mở ra không gian phát triển rất chậm, đã làm cho chúng ta phát triển đột phá”.
Với vai trò là động lực phát triển của Vùng, ông Bùi Ngọc Hải nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của việc tăng cường liên kết vùng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế giữa 4 tỉnh, thành phố để khơi thông, kết nối các nguồn lực, bổ sung lợi thế cho nhau, tối ưu hóa việc khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế. Việc tăng cường liên kết, hợp tác phù hợp với nhu cầu và thế mạnh của các địa phương gắn với các địa phương khác trong vùng sẽ tạo sự thống nhất và sức mạnh tổng hợp cho mỗi địa phương, cho toàn vùng và cả nước, nhất là trên các lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế; cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao và lao động có kỹ năng.
Đồng thời, phát huy thế mạnh của mỗi địa phương để tăng cường tình liên kết của các khu công nghiệp, khu kinh tế trục cao tốc phía đông. Trước hết để kết nối cần hiểu nhau, điều đầu tiên là phải có ngay đầu mối để có hệ thống dữ liệu thông tin về khu cụm công nghiệp trên địa bàn, nhu cầu ra sao, ưu tiên phát triển thế nào.
“Để tránh việc dừng ở khung cam kết cần có bộ tiêu chí để đánh giá hiệu quả liên kết, phải có cơ quan theo dõi. Đây là điều tiên quyết tuy rất khó nhưng phải làm để tạo đột phá, nghĩ ra ngoài cách làm thông thường” – ông nói.
Thứ hai, muốn liên kết phải chỉ cho doanh nghiệp thấy được lợi ích. Một KCN sử dụng hạ tầng dùng chung như trạm cấp hơi, khí nén, xử lý rác thải…. thì lợi ích thế nào, từ đó kêu gọi được các doanh nghiệp bắt tay liên kết, tạo nên các khu công nghiệp chuyên ngành, kích thích các nhà đầu tư có hạ tầng dùng chung để phát huy hiệu quả.
Thứ ba, liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp khi triển khai kinh tế tuần hoàn không chỉ còn là xu thế mà là yêu cầu tất yếu. Chúng ta càng kiến tạo sớm kinh tế tuần hoàn càng tạo sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Ở giai đoạn đầu triển khai doanh nghiệp thường ít nhận rủi ro, do đó Nhà nước, Hiệp hội phải hỗ trợ. Kinh nghiệm như tại Hàn Quốc, Chính phủ tài trợ hoàn toàn nghiên cứu khả thi khi chuyển đổi khu công nghiệp tổng hợp sang khu công nghiệp sinh thái…. “Chúng ta phải có cơ chế để giảm rủi ro và thu hút doanh nghiệp. Ngoài nỗ lực của doanh nghiệp cần có nỗ lực của cơ quan nhà nước với các chính sách hỗ trợ được ban hành đồng bộ” – ông Hải nhấn mạnh.
CẦN NHIỀU HƠN NỮA CÁC SÁNG KIẾN TƯƠNG TỰ TRỤC CAO TỐC PHÍA ĐÔNG
Thông tin tại Diễn đàn, ông Bruno Jaspaet -Tổng giám đốc Tổ hợp khu công nghiệp DEEP C cho biết, doanh nghiệp của chúng tôi hiện đang có mặt tại 2 tỉnh Hải Phòng và Quảng Ninh, đặc biệt với 26 năm có mặt tại Hải Phòng, khi hệ thống cao tốc phía đông được hình thành đã mang lại nhiều lợi thế, hỗ trợ cho sự phát triển cho các doanh nghiệp. Trước đó, việc đia lại giữa các địa phương là vô cùng khó khăn, khi trục cao tốc được thực hiện đã giúp việc đi lại rút ngắn nhiều thời gian.
“Thời gian tới đây, DEEP C cũng sẽ tiếp tục đầu vào Lạch Huyện của thành phố Hải Phòng, chúng tôi cũng kỳ vọng với sự liên kết hiện tại, hạ tầng sẽ ngày càng được hoàn thiện”, ông Bruno Jaspaet chia sẻ.
Theo ông Bruno Jaspaet, bất cứ nhà đầu tư nào trước khi quyết định một dự án đầu tư cũng sẽ hướng tới hạ tầng cảng biển là mục tiêu cuối cùng, vì vậy, bên cạnh hạ tầng đường bộ, cần phát triển hạ tầng tại các cảng biển.
“Theo tôi, chúng ta cần tận dụng những cơ hội hiện nay một cách hiệu quả nhất, một cách thống nhất, đồng bộ. Thời gian tới, có đoàn công tác của Hải Phòng sang Nhật Bản học tập kinh nghiệm, vì vậy, hiện chúng ta có liên kết cả 4 tỉnh, thì cần thiết cử đại diện của các tỉnh tham dự đoàn, để cùng học tập, cùng có một cách hiểu để áp dụng chung cho các tỉnh thành. Các nhà đầu tư đều mong muốn, bên cạnh các ưu đãi về đất, hạ tầng, 4 tỉnh trên trục cao tốc phía đông đang có hệ thống cao tốc tốt, cần thiết bổ sung them việc phát triện năng lượng xanh, đồng thời, cần có các trung tâm cơ, sở để đào tạo cắc lao động có tay nghề cao”, ông Bruno Jaspaet nói.
Tại Diễn đàn, ông Bruno Jaspaet cho rằng, hiện nay, có nhiều chủ trương về phát triển bền vững, doanh nghiệp của chúng tôi đã và đang xây dựng các khu công nghiệp sinh thái, hướng tới phát triển bền vững. Vì vậy, để đạt được mục tiêu đã nêu và để phát triển các khu công nghiệp thành khu công nghiệp sinh thái bền vững, cần phải có các chính sách, pháp luật đồng bộ, các chế định, chế tài đồng bộ, thống nhất…
“Để thu hút các dự án phát triển bền vững, bên cạnh tận dụng tốt các ưu đãi về đất, mặt bằng, cần sử dụng công cụ thuế một cách hiệu quả, các tỉnh cần có chung một quy định về sử dụng đất mặt bằng, nước thải, một cách hợp lý bởi trong thời gian tới nếu không có sự xử lý thì rất khó phát triển.
Trong tương lai cần thiết phát triển các khu công nghiệp thành khu công nghiệp sinh thái, cần phát triển đường sắt, đường thủy nội địa một cách đồng bộ để thúc đẩy phát triển, vận hành các cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp, cần có nhiều sáng kiến hơn nữa tương tự như sáng kiến phát triển trục cao tốc phía đông này”, ông Bruno Jaspaet nhấn mạnh.
>>LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN KCN: Cần nhiều hơn nữa các sáng kiến tương tự trục cao tốc phía đông
KẾT NỐI PHÁT TRIỂN
Ông Paul Tonkes – Phó Giám đốc Core 5 Việt Nam cho biết, hiện nay, chúng tôi có các dự án tại Hải Phòng, Quảng Ninh với các nhà xưởng xây sẵn diện tích từ 3.600 mét vuông và hiện cũng đang thu hút các nhà đầu tư khác vào nhà xưởng. Có rất nhiều giai đoạn trong quá trình phát triển, khi có mặt tại mỗi dự án, chúng tôi đều yêu cầu tất cả các nhà xưởng phải đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn đưa ra.
“Chúng tôi đã thực hiện triển khai các dự án tại miền Nam Việt Nam, kết nối các chuỗi cung ứng ở Brazil, Mỹ. Đặc biệt cơ hội phát triển ở đây có những nét rất đặc thù, mang lại nhiều lợi ích cho các nhà đầu tư. Trong đó, có một số điển hình như sự hợp tác giữa Việt Nam với các nước khác, những hợp tác song phương đã phát triển trong nhiều năm. Mỗi khi có các dự án thì đều có các đoàn công tác được thành lập để hỗ trợ những dự án lớn, hoặc việc chuyển đổi từ chuỗi sản xuất theo hướng Net Zero, quy trình này được áp dụng đồng bộ ở tất cả các tỉnh, thành phố” - ông Paul Tonkes cho biết.
Ngoài ra, các tỉnh thành phố đều có sự hỗ trợ đối với các nhà đầu tư khi họ đến đầu tư, đặc biệt khi đến các khu công nghiệp giống như ở Deep C, cũng được sự hỗ trợ từ các đơn vị phát triển hạ tầng của khu công nghiệp.
Với vai trò phát triển các nhà máy, nhà xưởng, chúng tôi thấy được sự linh động của các tỉnh, thành phố khi tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư không phải lo lắng, băn khoăn về các vấn đề tăng trưởng. Vì tất cả các dự án chính sách đều liên quan đến phát triển xanh hơn, hoặc cộng sinh công nghiệp, hoặc phát triển bền vững, bảo vệ môi trường. “Đặc biệt, chúng tôi nhận thấy có sự hợp tác hỗ trợ rất lớn của UBND các tỉnh, thành phố khi xây dựng lên các lộ trình để phát triển cho các khu công nghiệp song song với việc phát triển cơ sở hạ tầng ở các địa phương để kết nối phát triển” – ông nói.
CẦN XÂY DỰNG VÀ VẬN HÀNH CƠ CHẾ LIÊN KẾT ĐẦU TƯ
Chia sẻ tại Diễn đàn, ông Nguyễn Trung Kiên – Trưởng Ban quản lý các KCN tỉnh Hải Dương cho biết, Hải Phòng, Quảng Ninh có nhiều điểm khác với Hải Dương và Hưng Yên và đương nhiên KKT sẽ có ưu đãi khác với KCN. Tuy nhiên, tại sao chúng ta phải chia sẻ thông tin, tại sao chúng ta phải xúc tiến dùng chung. Chúng tôi cho rằng có những ngành nghề đầu tư được ở biển, có ngành nghề phải xa biển để không ảnh hưởng bởi khí hậu của biển.
Như Chủ tịch VCCI vừa nêu, chúng ta còn hơn 20 năm để trở thành đất nước công nghiệp. Với định hướng lớn như vậy chúng ta phải đầu tư vào công nghiệp, ưu tiên vào công nghiệp. “Nghị định số 35/2022/NĐ-CP tôi cho rằng chưa đủ mạnh, bởi có rất nhiều lĩnh vực của các ngành cho nên tôi đồng tình với ý kiến phải có 1 luật dành cho KKT, KCX, KCN” – ông Kiên nói.
Hiện, Hải Phòng sẽ áp dụng khác với Hưng Yên, ngay trong tổ chức cũng vậy, phân công, phân cấp về các lĩnh vực, như: xây dựng, môi trường hoặc lao động… Trong khi đó, mục đích của Nghị định số 35/2022/NĐ-CP là một cửa, một đầu mối, để tạo thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư. Nếu Hải Phòng, Quảng Ninh có lợi thế về ưu đãi thuế, cải cách hành chính… nhưng nếu Hải Dương, Hưng Yên không được phân cấp triệt để bởi lý do của các vướng mắc của các luật không được đồng nhất.
Do vậy, “chúng tôi mong muốn có luật KKT, KCX, KCN riêng. Đồng thời, tiếp tục tham mưu với Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng thể chế liên kết vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, liên kết trục cao tốc phía Đông trong Đề án thể chế liên kết vùng ở Việt Nam giai đoạn 2021-2030 trình Thủ tướng Chính phủ ban hành” – ông nói.
Đồng thời, tiếp tục tham mưu với Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất bổ sung dự án Luật KCN, KKT tạo khung pháp lý cao nhất để nâng cao hiệu lực, hiệu quả và sự đồng bộ trong việc quy hoạch, đầu tư xây dựng và vận hành các KCN, KKT, KCX theo hướng phân cấp, giao nhiệm vụ trực tiếp cho Ban Quản lý thực hiện toàn diện chức năng quản lý nhà nước đối với các KCN, KKT, KCX. Trong đó có chức năng thanh tra; nhằm thống nhất, đồng bộ trong cơ chế quản lý nhà nước đối với các KCN; giải quyết những mâu thuẫn, chồng chéo trong cơ chế quản lý đối với các lĩnh vực về xây dưng, môi trường, lao động, … trong KCN.
Các Bộ, ngành chủ động phân cấp, ủy quyền cho các Ban Quản lý thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước chuyên ngành đảm bảo phát huy hiệu quả vai trò “một cửa, một đầu mối” của các Ban Quản lý KCN, KKT, KCX. Đơn cử như trong công tác quản lý quy hoạch và xây dựng đối với các KCN tỉnh Hải Dương hiện nay được phân cho 3 đơn vị thuộc cấp tỉnh, cấp huyện cùng quản lý; nhiều nhà đầu tư gặp khúc mắc trong thực hiện thủ tục và tốn nhiều thời gian, gây ảnh hưởng đến tiến độ đầu tư cũng như sự hài lòng của nhà đầu tư trong cơ chế quản lý. Cần xác định, xây dựng và vận hành cơ chế về đầu tư “điều nhà đầu tư cần là vấn đề nhà nước giải quyết”.
PHÁT TRIỂN GIAO THÔNG ĐỂ KẾT NỐI VỚI CÁC TỈNH
Ông Phạm Trường Tam – Trưởng ban BQL các KCN tỉnh Hưng Yên cho biết, Hưng Yên là tỉnh nằm ở tuyến đầu của tuyến cao tốc Hà Nội - Hải Phòng. Với vị trí đó cũng có những điểm mạnh và các điểm cần có sự liên kết giữa các vùng để phát huy được lợi thế của Hưng Yên. Hưng Yên có diện tích đất tự nhiên của tỉnh khoảng 930 km2, dân số khoảng 1,3 triệu người.
Những năm vừa qua, tốc độ tăng trưởng của Hưng Yên cũng theo xu thế chung của các tỉnh, thành phố thuộc trục cao tốc phía Đông đang tăng trưởng. Với tinh thần đó, Hưng Yên cũng như các tỉnh, thành phố đang mong muốn xây dựng một khu vực sản xuất, tạo động lực để phát triển kinh tế - xã hội cho tỉnh. Với 3 trụ cột, thứ nhất là tập trung vào phát triển giao thông để kết nối với các tỉnh bạn. Hiện nay, giao thông để kết nối với các tỉnh, thành phố trong khu vực việc đối nối hạ tầng các nút giao trên trục cao tốc, các trục đồng cấp với nhau để lưu lượng xe lớn có thể lên xuống được đồng bộ nhau thì rất quan trọng.
Theo kinh nghiệm làm công nghiệp của Hưng Yên, từ năm 2003 đến nay, chúng tôi thấy rằng, vì sao sự dịch chuyển công nghiệp phải căn cứ vào giao thông. Hiện tổ hợp khu công nghiệp có khoảng 7 KCN với diện tích khoảng 2.000ha đang nằm ở giữa tỉnh. Qua quan sát thực tế, các chủ hạ tầng KCN rất cần hệ thống giao thông như vậy. Nếu đất đai chúng ta còn, nhưng sự kết nối giao thông chưa đảm bảo thì có mời gọi các doanh nghiệp cũng không về.
Thứ hai, các KCN mang tính chất của quốc gia thì cũng là một yếu tố rất quan trọng. Ví dụ, Hưng Yên có KCN của Nhật Bản đã mở rộng đến giai đoạn 3 diện tích khoảng 600ha. Ở đây, cộng đồng người Nhật có khoảng 100 doanh nghiệp. Khi thu hút các nhà đầu tư khác vào, cộng đồng doanh nghiệp sẽ trao đổi nhau về vấn đề như: liên thông, tư vấn pháp lý và các vấn đề khác về pháp luật Việt Nam. Như thế, khi thu hút được các nhà đầu tư lớn vào các khu vực một KCN của một đại diện một quốc gia thì sẽ được dòng vốn như vậy.
Thứ tư, chúng ta cần quan tâm là vấn đề nguồn nhân lực. Trong đó gồm nguồn nhân lực nội tại và nguồn nhân lực ngoại tỉnh. Theo quan sát của chúng tôi, qua quá trình kiểm soát kỹ, có khoảng 30- 40 % lao động tỉnh bạn đến làm việc tại các KCN của Hưng Yên. Vì vậy, việc đào tạo và thu hút nguồn lực phải bài bản, rõ ràng. Các tỉnh, thành phố cần có sự cân đối về cung cầu để chia sẻ với nhau. Hiện nay, sự kết nối giữa các trường đại học, trường đào tạo nghề với các doanh nghiệp hiện còn rời rạc và cơ bản các doanh nghiệp đều chủ động đi tìm người. Chúng ta là cơ quan quản lý nhà nước chưa hình thành được một hệ thống. Chúng ta có thể đặt vấn đề với hệ thống đào tạo về nguồn nhân lực nhân lực để bắt tay, hợp với doanh nghiệp để doanh nghiệp đặt hàng với các trường học để giải quyết công ăn việc làm cho các sinh viên ra trường rất là tốt và doanh nghiệp rất cần.
Hiện nay, những cuộc họp giữa 4 tỉnh, thành phố mới chỉ ở bước đầu và thời gian tới sẽ diễn ra đều hơn. Tôi mong muốn những cuộc họp lần sau sẽ tập trung vào chuyên ngành hơn. Ví dụ như chia sẻ dữ liệu, hiện nay, nhiều doanh nghiệp không phải đầu tư vào 1 tỉnh mà đầu tư tại cả 4 tỉnh, thành phố. Tuy nhiên, các cơ quan nhà nước không nắm được điều này do chủ động tìm nguồn đến.
Chúng tôi đề xuất thành lập Hiệp hội các KCN, các doanh nghiệp trong các KCN của Hiệp hội để tạo thành sự liên thông. Và thường xuyên hằng năm tổng kết. Cùng với đó, việc đấu nối hạ tầng, chúng ta cần phải rà soát lại các tỉnh và chúng tôi đang có một bài toán ngược là KCN thì càng ngày càng mở rộng nhưng nhân lực quản lý thì đứng im hoặc tinh giảm. Trong khi, các ban quản lý khu công nghiệp quản lý rất tốt.
“Chúng tôi rất mong muốn được giao thêm thẩm quyền quản lý cho các ban quản lý KCN. Đối với kiến nghị chung của các tỉnh, thành phố, chúng tôi cũng mong muốn được phân bổ thêm cho tỉnh Hưng Yên về chỉ tiêu đất” – ông nói.
TẠO KHÔNG GIAN XANH TRONG KHU CÔNG NGHIỆP
Ông Trương An Dương, Giám đốc điều hành khu vực phía Bắc và khối bất động sản nhà ở Frasers Property Vietnam cho biết, chúng tôi cam kết phát triển bất động sản và dịch vụ khu công nghiệp, hạ tầng khu công nghiệp một cách bền vững và các dự án của Frasers đạt chứng chỉ xanh. Phát triển vào chuỗi khu công nghiệp bền vững, xanh trong trục cao tốc phía Đông. Khi phát triển bền vững, bất động sản khu công nghiệp, từ kinh nghiệm của Frasers cần nhìn vào 3 yếu tố: con người, doanh nghiệp và môi trường và đảm bảo phát triển bền vững từ khâu thiết kế, xây dựng và vận hành về sau.
Tại khâu thiết kế quy hoạch, Frasers sẵn sàng hy sinh diện tích xây dựng trên các dự án để có thêm diện tích trồng cây, xây dựng công viên tạo không gian xanh trong khu công nghiệp để bảo vệ môi trường và khu thể thao tạo điều kiện cho người lao động trong các nhà máy nâng cao thể chất, đảm bảo sức khoẻ, làm phong phú đời sống tinh thần.
Đối với các doanh nghiệp, Frasers chủ động làm việc với các đối tác, đưa công nghệ xanh, công nghệ cho phát triển bền vững, sử dụng năng lượng tái tạo trong khu công nghiệp, góp phần tiết kiệm năng lượng cho doanh nghiệp. Đây là xu hướng phát triển tất yếu trong tương lai gần của các khu công nghiệp, góp phần thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài, nhất là dòng vốn xanh từ châu Âu, Mỹ cũng như cung cấp sản phẩm tiêu dùng xanh đáp ứng tiêu chuẩn, chứng chỉ xanh theo yêu cầu của người tiêu dùng toàn cầu.
HỆ SINH THÁI KẾT NỐI NHIỀU TẦNG VÀ CHẶT CHẼ
Ông Nguyễn Anh Minh, Phó Tổng giám đốc Công ty CP Shinec, Chủ đầu tư KCN Nam Cầu Kiền cho biết, từ các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, từ các khu công nghiệp trong tỉnh tạo ra sự kết nối vùng giữa các doanh nghiệp khu công nghiệp kết nối trục cao tốc phía Đông sẽ tạo ra hệ sinh thái kết nối nhiều tầng và chặt chẽ. Qua thực tiễn đầu tư tại Hải Phòng và các tỉnh thành trên cả nước, đồng thời được trải nghiệm cùng tâm lý chia sẻ của các nhà đầu tư khi tới Việt Nam, chúng ta không thể bỏ qua vai trò xúc tiến đầu tư tại chỗ. Doanh nghiệp sản xuất tại đây chính là khách hàng tiềm năng và trung thành khi chúng ta thu hút các nhà đầu tư quốc tế.
“Đây là con đường ngắn và tối ưu khi chúng ta thu hút đầu tư thông qua thu hút đầu tư tại chỗ.
Bên cạnh đó, tôi muốn nhấn mạnh sự đồng nhất và hiệu quả, không chỉ các loại hình trong khu công nghiệp mà chúng ta phải có cách thức ngắn nhất và thiết thực. Do đó chúng ta cần cơ chế phối hợp liên kết hiệu quả giữa bốn tỉnh thành trục cao tốc phía đông. Chúng tôi đề xuất thành lập Hội kết nối vùng có khu công nghiệp” – ông Nguyễn Anh Minh nói.
TẬP TRUNG PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ LOGISTICS
Ông Trần Tiến Dũng - Chủ tịch Hiệp hội Logistics Hải Phòng cho biết, hệ thống giao thông phát triển đang giúp trục tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh trở thành nhân tố chính tạo động lực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm miền Bắc, tạo ra “tam giác vàng” có khả năng phát triển siêu đô thị dạng dải (Megalopolis), kết nối với khu vực Quảng Tây và vùng kinh tế Quảng Đông – Hồng Kông.
Theo thống kê từ Viện Nghiên cứu và Phát triển Logistics Việt Nam (VLI), hạ tầng các khu kinh tế, khu công nghiệp và cụm công nghiệp trên trục Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh được xem là một trong những khu vực được đầu tư hoàn thiện nhất tại vùng kinh tế trọng điểm miền Bắc (xem hình 1) với tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp trung bình 43% cho Quảng Ninh, 96% đối với Hà Nội và 68% là của Hải Phòng (cả nước đạt 70,9%) (UBND tỉnh Quảng Ninh, 2022).
Với số lượng và quy mô các KTT, KCN và CCN lớn với cơ sở hạ tầng hoàn thiện sẽ là nguồn chân hàng rất lớn khi việc liên kết vùng được triển khai hiệu quả trong tương lai…
Thông qua việc đánh giá về các lĩnh vực dịch vụ logistics có tiềm năng phát triển tại Tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, VLA đề xuất nên tận dụng sự kết nối của trục cao tốc phía Đông, bao gồm cao tốc Hà Nội – Hải Phòng; Hải Phòng – Hạ Long; Hạ Long – Vân Đồn; Vân Đồn – Móng Cái, đến các cửa khẩu với Trung Quốc để tập trung phát triển các dịch vụ logistics như: Logistics cho Thương mại điện tử; Logistics xuyên biên giới (Cross border Logistics); Logistics cảng biển; và Logistics du lịch.
“Muốn phát triển các dịch vụ này, trước mắt cần tập trung đầu tư phát triển dịch vụ logistics về hạ tầng hậu phương cảng biển; Hệ thống kho lạnh phục vụ hàng nông sản; Hạ tầng kho bãi và trung tâm logistics tại các cửa khẩu biên giới”, ông Trần Tiến Dũng chia sẻ.
Đóng góp cho sự phát triển hệ thống logistics trên trục kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, ông Dũng cho rằng, VLI đã được tín nhiệm phân giao thực hiện đề tài nghiên cứu: “Nghiên cứu luận cứ khoa học phục vụ xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu cảng biển Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Cũng trong quý III năm 2023, VLI sẽ tiếp nhận đề án “Nghiên cứu xây dựng đề án phát triển logistics của tỉnh Quảng Ninh đến năm 2035, tầm nhìn 2045”.
“Đây là các đề tài, đề án trọng điểm của cả Hải Phòng và Quảng Ninh và có thể được xem là động lực kích thích việc liên kết vùng được diễn ra mạnh mẽ hơn khi 2 địa phương thuộc trục kết nối Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh cùng thực hiện các đề tài, đề án về logistics trong một khoảng thời gian tương đồng với cùng một đơn vị tư vấn có danh tiếng về Logistics là VLI và là đơn vị trực thuộc VLA”, ông Dũng bày tỏ.
Phát biểu kết luận tại Diễn đàn, ông Phạm Tấn Công – Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho biết, chúng ta đã có ba tiếng thảo luận sôi nổi chia sẻ kinh nghiệm, nêu các vấn đề và các kiến nghị liên quan đến chủ đề “Liên kết phát triển Khu công nghiệp trục cao tốc phía Đông” và tổng hợp ý kiến nêu tại Diễn đàn cũng thấy, phát triển khu công nghiệp là điều kiện tiên quyết để thực hiện công nghiệp hóa các địa phương.
Tuy nhiên, Chủ tịch VCCI, cần có chủ trương phát triển, có sự liên kết phối hợp giữa các địa phương trong phát triển khu công nghiệp, đồng thời khẳng định sự liên kết kinh tế giữa bốn tỉnh thành gồm Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh là rất cần thiết cho sự phát triển của các doanh nghiệp, các khu công nghiệp, cũng như các địa phương.
Các ý kiến cũng nêu bật và mạnh dạn đưa ra rằng chúng ta phải trở thành một “trục thịnh vượng”. Điều này trong Nghị quyết 30 về phát triển vùng Đồng bằng sông Hồng, chúng ta cũng đã có vị trí để trở thành động lực phát triển của vùng. Thực tế, bốn tỉnh này ghép lại như một tam giác và được coi là tam giác phát triển của đất nước, như chúng ta đã mong muốn là trở thành khu vực năng động hàng đầu quốc gia.
Diễn đàn đã nghe ý kiến phát biểu của ông Nguyễn Văn Tùng - Chủ tịch UBND TP Hải Phòng và ba phát biểu tham luận của đại diện Tổng hội Xây dựng, Viện Kinh tế CIEM và Bộ Tài nguyên Môi trường về những vấn đề lớn liên quan đến phát triển khu công nghiệp trong khu vực.
Bên cạnh phát biểu của GS Hà Tôn Vinh, chúng ta có 9 ý kiến của đại diện các Ban quản lý các doanh nghiệp phát triển khu công nghiệp, GS Hà Tôn Vinh đã đề cập đến mô hình khu công nghiệp của tiểu vương quốc Ả Rập (UAE) - một đất nước nhỏ trước đây phụ thuộc hoàn toàn vào tài nguyên dầu khí, nhưng hiện nay dầu khí chỉ còn 5% trong GDP của quốc gia này. “Chúng tôi đã đến thăm, nghiên cứu các mô hình bao gồm cả mô hình khu công nghiệp thì thấy rằng, chính các khu công nghiệp này đã giúp cho UAE chuyển đổi cơ cấu kinh tế rất thành công” – ông Phạm Tấn Công nhấn mạnh.
Hay Trung Quốc cũng là một mô hình thành công khi phát triển khu công nghiệp. Vì vậy, Việt Nam phải công nghiệp hóa bằng việc thực hiện thành công các khu công nghiệp. Đây cũng là vai trò mà bốn địa phương cùng quyết tâm thực hiện mô hình phát triển các khu công nghiệp, các ý kiến thảo luận cũng khẳng định cần phải phát triển các khu công nghiệp trong tiểu vùng; có sự kết nối nâng cao hiệu quả; quan tâm phát triển các khu công nghiệp bền vững và thu hút các doanh nghiệp, các nhà đầu tư có nhận thức, định hướng phát triển bền vững vào khu công nghiệp.
Đặc biệt, Chủ tịch VCCI cần liên kết nâng cao chất lượng hiệu quả dịch vụ trong khu công nghiệp, hình thành Trung tâm Logistics liên kết với nhau, để xây dựng thương hiệu trục cao tốc phía Đông là khu vực phát triển năng động hàng đầu Việt Nam, có môi trường kinh doanh thuận lợi. Điều này đã được nêu rất rõ qua đánh giá PCI hàng năm, trong đó cả bốn địa phương đều có chỉ số PCI rất tốt, nổi lên là tỉnh Quảng Ninh và Hải Phòng.
Theo tôi, Diễn đàn này chỉ là sự khởi đầu cho liên kết các khu công nghiệp trục cao tốc Phía Đông và sắp tới đây cần có sự chủ động của các doanh nghiệp phát triển các khu công nghiệp, sự tích cực của các Ban quản lý, sự ủng hộ của cấp ủy Đảng và chính quyền... Có thể thấy, chỉ còn 22 năm nữa để phấn đấu đưa Việt Nam thành quốc gia phát triển và cần phải đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Điều này cần phải đạt được, đặc biệt là 4 địa phương nằm trong trục cao tốc phía Đông khi Việt Nam trở thành quốc gia phát triển.
“VCCI cam kết sẽ sát cánh cùng các tỉnh thành, các UBND bốn địa phương thực hiện mong muốn này và ngay trong tháng 9, Hội đồng Kết nối kinh tế sẽ có kế hoạch hoạt động, để thúc đẩy kinh tế ngày càng thực chất, hiệu quả giữa bốn địa phương. Đồng thời, Hội đồng doanh nghiệp trục cao tốc phía Đông sẽ chính thức thành lập, để kết nối doanh nghiệp trong bốn địa phương thực hiện các chủ trương phát triển” – Chủ tịch VCCI nhấn mạnh.
Trong các tháng cuối năm, VCCI cũng tổ chức các Diễn đàn xúc tiến Đầu tư tại Nhật Bản, Đài Loan, Châu Âu và Mỹ để kêu gọi xúc tiến đầu tư của các doanh nghiệp trong khu vực.
Có thể bạn quan tâm
LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN KCN: Cần nhiều hơn nữa các sáng kiến tương tự trục cao tốc phía đông
16:41, 31/08/2023
Uy tín quốc tế giúp Việt Nam đứng ở vị thế tốt hơn trong hợp tác với Mỹ
16:36, 31/08/2023
LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN KCN: Tiếp cận sinh thái và đổi mới sáng tạo
15:36, 31/08/2023
LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN KCN: Hướng tới nền kinh tế tuần hoàn
15:34, 31/08/2023
LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN KCN: Cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất
15:03, 31/08/2023