Phát triển chuỗi cung ứng nông nghiệp an toàn

NHÓM PHÓNG VIÊN 29/09/2023 09:11

Diễn đàn “Phát triển chuỗi cung ứng sản xuất nông nghiệp an toàn” do VCCI chỉ đạo, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức tại TP Hồ Chí Minh sáng 29/09/2023.

>>“Cầu nối” hoàn thiện chuỗi cung ứng nông nghiệp

Trong những năm gần đây, Việt Nam, với lợi thế là quốc gia nông nghiệp, ngày càng phát huy vai trò của mình đối với câu chuyện tiên phong đổi mới trong nền kinh tế, đóng góp cho tăng trưởng GDP quốc gia, đảm bảo an ninh lương thực và định vị Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Đặc biệt, với chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành nhiều chính sách pháp luật quan trọng về đảm bảo an toàn thực phẩm, nâng cao chất lượng nông lâm thủy sản, trong đó có phê duyệt Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021-2025 với mục tiêu “Tiếp tục thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp bền vững, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh nông sản”, và các chính sách đi cùng, đã thúc đẩy cơ cấu lại sản xuất theo nhiều cấp độ, hình thành chuỗi cung ứng bền vững trong sản xuất nông lâm thủy sản.

Tiếp nối các sự kiện, chuỗi diễn đàn mang đến các cơ hội đầu tư và cái nhìn rộng mở cho doanh nghiệp, nhà đầu tư, đặc biệt các doanh nghiệp, thành viên là những “mắt xích” tham gia trong chuỗi cung ứng nông nghiệp Việt;  trong sự kiện hôm nay, được sự chỉ đạo của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với VCCI chi nhánh TP HCM tổ chức:

DIỄN ĐÀN:PHÁT TRIỂN CHUỖI CUNG ỨNG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP AN TOÀN

- Thời gian: 08h30 – 11h30, Thứ Sáu, ngày 29/09/2023
- Địa điểm: Hội trường Lầu 10, VCCI-HCM, 171, Võ Thị Sáu, Q. 3, TP. HCM

Toàn cảnh Diễn đàn Phát triển chuỗi cung ứng nông nghiệp an toàn

Toàn cảnh Diễn đàn Phát triển chuỗi cung ứng nông nghiệp an toàn

Tham dự Diễn đàn về phía các vị khách mời có: Tham dự Diễn đàn, về phía các đại biểu tham dự có: Ông Nguyễn Văn Phụng - nguyên Cục trưởng Cục Quản lý thuế doanh nghiệp lớn Tổng cục Thuế; Ông Trần Việt Anh - Chủ tịch HĐQT Công ty CP XNK Thái Sơn, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp TP Thủ Đức; Ông Trần Minh Hải - Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và PTNT, Bộ NN&PTNT; Bà Vũ Kim Hạnh – Chủ tịch Hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao; Ông Trần Chí Dũng - Trưởng Ban Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistic Việt Nam (VLA); Ông Ngô Xuân Chinh - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp - Viện Khoa học Kỹ thuật NN miền Nam; Ông Nguyễn Lương Thiện - Giám đốc Trung tâm Phân tích và Dịch vụ Khoa học Công nghệ Nông nghiệp; TS. Từ Minh Thiện, Tổng Giám đốc Công ty CP Phát triển Dịch vụ Thái Bình Dương; Ông Bùi Văn My - Phó Tổng Giám đốc Tổng Cty Nông nghiệp Sài gòn TNHHMTV.

Về phía Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có: Ông Võ Tân Thành - Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); Ông Trần Ngọc Liêm - Giám đốc VCCI chi nhánh TP HCM.

Về phía Ban Tổ chức có: Ông Phạm Hùng - Phó Tổng Biên tập kiêm Trưởng cơ quan đại diện Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phía Nam, Trưởng Ban tổ chức chương trình. 

Diễn đàn đặc biệt có sự tham gia của các đại diện các đơn vị, cơ quan chuyên môn thuộc Viện Nghiên cứu chính sách nông nghiệp; Trường ĐH Nông Lâm TPHCM; cùng các lãnh đạo các cơ quan Sở ngành, doanh nghiệp trên địa bàn TP HCM, các tỉnh Đông và Tây Nam Bộ; các doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực nông nghiệp, doanh nghiệp hội viên VCCI; Các nhà báo/phóng viên các cơ quan thông tấn báo chí.

>>CHUỖI CUNG ỨNG NÔNG NGHIỆP AN TOÀN: Nỗ lực tham gia chuỗi giá trị nông sản toàn cầu

NỖ LỰC THAM GIA CHUỖI GIÁ TRỊ NÔNG SẢN TOÀN CẦU

Phát biểu tại Diễn đàn, Phó Chủ tịch VCCI Võ Tân Thành cho biết, Việt Nam là một trong những quốc gia đứng đầu thế giới về quy mô xuất khẩu nông sản. Tuy nhiên, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam lại có giá trị và khả năng cạnh tranh thấp so với các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, mức độ tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu hàng nông sản còn chưa cao, do 80% các mặt hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu hiện nay chủ yếu ở dạng nông sản thô, hàm lượng chế biến thấp.

Phó Chủ tịch VCCI Võ Tân Thành phát biểu tại Diễn đàn.

Phó Chủ tịch VCCI Võ Tân Thành phát biểu tại Diễn đàn Phát triển chuỗi cung ứng nông nghiệp an toàn.

Theo Hiệp định Nông nghiệp của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), hàng nông sản bao gồm tất cả các sản phẩm nông nghiệp cơ bản như lúa gạo, bột mì, sữa, động vật sống, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, chè, rau quả tươi,…Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO), hàng nông sản là bất kỳ sản phẩm hoặc hàng hóa nào, thô hoặc chế biến, được bán trên thị trường cho con người.

Cũng theo Phó Chủ tịch VCCI Võ Tân Thành, trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, hàng nông sản luôn chiếm tỷ trọng khá cao, nhiều loại nông sản đã khẳng định được vị thế trên thị trường khu vực và thế giới như: gạo, cà phê, hồ tiêu, cao su, hạt điều, chè, trái cây, rau quả… 

Theo thống kê, đến tháng 1/2023, nông sản của Việt Nam đã có mặt trên thị trường của 185 quốc gia và vùng lãnh thổ. Kim ngạch xuất khẩu tăng qua các năm.

Ông Thành cho rằng, ngành Nông nghiệp Việt Nam vẫn đang nỗ lực tham gia vào chuỗi giá trị nông sản toàn cầu với nhiều sản phẩm đạt giá trị xuất khẩu cao như cà phê, hồ tiêu, hạt điều, thủy sản, hoa quả,… Đây là những mặt hàng nông sản chủ lực có tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Những mặt hàng này luôn là thế mạnh của Việt Nam bởi các lợi thế cạnh tranh quốc gia mang lại.

Theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/07/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp là hình thức liên kết trong sản xuất nông nghiệp theo chuỗi, từ cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào, sản xuất, sơ chế hoặc chế biến gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.  

Tuy vậy, theo đánh giá của Viện Công nghệ sau thu hoạch, do trình độ phát triển và chi phí đầu tư cho công nghiệp chế biến còn thấp nên tỷ lệ sản phẩm nông sản chế biến đạt chất lượng quốc tế mới chỉ đạt khoảng trên dưới 10% và số doanh nghiệp chế biến nông sản đăng ký chất lượng sản phẩm hiện mới dừng ở tỷ lệ khoảng 15%.

“Chính vì vậy, để hình thành chuỗi cung ứng nhằm giữ chất lượng, nâng cao giá trị ở mỗi công đoạn đều phải có cách tiếp cận và tuân thủ theo những quy định cụ thể. Việc này sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu hình thành các chuỗi cung ứng nông sản để có thể đáp ứng yêu cầu nghiêm ngặt của các nước nhập khẩu”, Phó Chủ tịch VCCI Võ Tân Thành nhấn mạnh.

Đồng thời, ông cũng cho rằng, thực tế cho thấy đã hình thành chuỗi cung ứng đồng bộ từ sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, theo các hình thức liên kết khác nhau, như liên kết tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra ở một số tỉnh có hàng nông sản xuất khẩu như vùng Đồng bằng Sông Cửu Long hay phía Bắc có Sơn La. 

Một số chuỗi cung ứng nông sản đã ứng dụng thành công công nghệ mới như công nghệ thông tin, công nghệ chuỗi khối để kết nối sản xuất và tiêu dùng, truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông sản nhằm gia tăng giá trị. Đây là dấu hiệu đáng mừng nhằm đẩy mạnh sự tham gia của hàng nông sản Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng hàng nông sản toàn cầu.

Theo Phó Chủ tịch VCCI Võ Tân Thành, để tham gia chuỗi cung ứng hàng nông sản an toàn và bền vững, trước hết nhà nước cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp qua việc tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, đặc biệt là ban hành các quy chuẩn, tiêu chuẩn chất lượng, nâng cao hiệu lực hợp đồng và hoàn thiện khung pháp lý và các chính sách hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước tạo điều kiện cho liên kết phát triển.

Cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, sự quyết tâm của các địa phương, doanh nghiệp Việt Nam phải tự vận động đi lên bằng cách đầu tư thích đáng cho công nghệ, liên kết nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh. Đồng thời, với vai trò là trung tâm chuỗi, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cũng cần có sự kết nối chặt chẽ với các thành viên khác trong chuỗi.

“Sự chia sẻ và kết nối hiệu quả sẽ góp phần cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời cho tất cả các thành viên trong chuỗi, giúp cân đối tốt hơn công tác thu mua, dự trữ và vận chuyển; hướng tới giảm thiểu những tác động về cung cầu trên thị trường; từng bước đáp ứng yêu cầu truy nguyên nguồn gốc xuất xứ sản phẩm nông sản xuất khẩu”, Phó Chủ tịch VCCI Võ Tân Thành lưu ý.

Đồng thời ông cho rằng, việc phát triển chuỗi cung ứng cho nông sản an toàn là cần thiết và là đòi hỏi tất yếu. Do đó, ông mong muốn Diễn đàn Phát triển chuỗi cung ứng sản xuất nông nghiệp an toàn sẽ tập hợp được nhiều các khuyến nghị từ chuyên gia, doanh nghiệp và sẽ góp tiếng nói chung để Việt Nam xây dựng được hệ thống chính sách đồng bộ thúc đẩy sự tham gia của các địa phương, tổ chức, doanh nghiệp vào chuỗi cung ứng trong khu vực và trên toàn cầu.

>>CHUỖI CUNG ỨNG NÔNG NGHIỆP AN TOÀN: Liên kết hợp tác cần tuân thủ 4 nguyên tắc

LIÊN KẾT HỢP TÁC CẦN TUÂN THỦ 4 NGUYÊN TẮC

Chia sẻ tại Diễn đàn, ông Nguyễn Văn Phụng, nguyên Cục trưởng Cục Quản lý thuế doanh nghiệp lớn - Tổng cục Thuế cho rằng sự phát triển của nông nghiệp đang theo hướng nâng cao giá trị và điều này cho thấy vai trò quan trọng của việc hợp tác liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ngày càng được quan tâm. Bởi, thực tế cho thấy, việc hợp tác liên kết một cách nghiêm túc là tiền đề bảo đảm cho các chủ thể tham gia trong chuỗi giá trị chia sẻ quyền lợi, trách nhiệm và đầu tư có hiệu quả trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nông sản, góp phần thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển trong dài hạn.

Cũng theo ông Phụng, nhằm khuyến khích hoạt động hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị, gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp… (gọi chung là nông sản); ngày 07/07/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 98/2018/NĐ-CP  về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Trong đó, mục tiêu của chính sách là thúc đẩy việc hình thành và phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung một hay một nhóm nông sản cùng loại, có quy mô phù hợp với từng loại hình sản xuất và điều kiện của mỗi địa phương, tuân thủ các quy định của Nhà nước về an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh, bảo vệ môi trường, có liên kết gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.

Ông Nguyễn Văn Phụng, nguyên Cục trưởng Cục Quản lý thuế doanh nghiệp lớn - Tổng cục Thuế.

Ông Nguyễn Văn Phụng, nguyên Cục trưởng Cục Quản lý thuế doanh nghiệp lớn - Tổng cục Thuế.

Tuy nhiên, ông Phụng cũng lưu ý, để định hướng khuyến khích hợp tác liên kết gắn với phát triển nông thôn theo quy hoạch phát triển, thì trong quá trình thực hiện cần phải đảm bảo liên kết ổn định, lâu dài, bền vững; gắn với định hướng quản lý chất lượng, an toàn … các dự án, kế hoạch hợp tác, liên kết phải tuân thủ các nguyên tắc, điều kiện cụ thể:

Một là: Ngoài các nội dung tự thỏa thuận giữa các bên tham gia liên kết, Dự án liên kết phải có ít nhất một trong 3 nội dung, như: Thiết kế, cải tạo đồng ruộng, đầu tư xây dựng, mở rộng quy mô diện tích vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung; Đầu tư xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, thu hoạch, chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; Góp vốn, tài sản, giá trị quyền sử dụng đất, công nghệ hay quy trình sản xuất.

Hai là, Các bên tham gia liên kết được hỗ trợ phải đáp ứng đồng thời các điều kiện: Phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương; Giấy chứng nhận hoặc cam kết bảo đảm các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh và bảo vệ môi trường; Liên kết phải đảm bảo ổn định, theo đó với những sản phẩm nông nghiệp có chu kỳ nuôi, trồng, khai thác dưới 01 năm, thời gian liên kết tối thiểu là 03 năm.

Ba là, bảo đảm sự công bằng, rõ trách nhiệm và quyền lợi của các bên liên kết, khuyến khích ưu đãi cao nhưng không trùng lắp về nguồn lực, như: đối với mỗi loại hình liên kết, các bên tham gia liên kết ở nội dung nào sẽ được hưởng chính sách hỗ trợ ở nội dung đó; mỗi bên chỉ được hỗ trợ khi nội dung liên kết được thực hiện theo thỏa thuận trong hợp đồng, dự án liên kết. Trường hợp cùng một thời điểm, nội dung có nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ khác nhau (kể cả từ các chương trình, dự án khác) thì đối tượng thụ hưởng được quyền lựa chọn áp dụng chính sách ưu đãi, hỗ trợ có lợi nhất.

Bốn là, có quy định để tạo cơ sở pháp lý cũng như khuyến khích việc thu hút các nguồn lực tài chính hỗ trợ cho hợp tác, liên kết. Theo đó, ngoài nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương, các địa phương chủ động cân đối bổ sung ngân sách địa phương, lồng ghép các chương trình, dự án để thực hiện chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Đồng thời, Nhà nước khuyến khích các nguồn vốn hỗ trợ hợp pháp khác để thúc đẩy liên kết gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. 

>>CHUỖI CUNG ỨNG NÔNG NGHIỆP AN TOÀN: Cần thay đổi tư duy liên kết sản xuất kinh doanh

CẦN THAY ĐỔI TƯ DUY LIÊN KẾT SẢN XUẤT KINH DOANH

Tham luận tại Diễn đàn, TS. Từ Minh Thiện, Tổng Giám đốc Công ty CP Phát triển Dịch vụ Thái Bình Dương chia sẻ 5 nhu cầu của thị trường: Thứ nhất, giá cả phải thực sự cạnh tranh. Theo ông, nông sản hiện nay đang cạnh tranh rất mạnh, đặc biệt là cạnh tranh với giá của nhiều quốc gia khác như Trung Quốc, Thái Lan…

TS. Từ Minh Thiện, Tổng Giám đốc Công ty CP Phát triển Dịch vụ Thái Bình Dương

TS. Từ Minh Thiện, Tổng Giám đốc Công ty CP Phát triển Dịch vụ Thái Bình Dương

Thứ hai, phải có khả năng cung cấp thường xuyên, đúng thời hạn. Có những công ty chỉ bán sản phẩm duy nhất nhưng thuê gian hàng hội chợ lớn bằng cả cái hội trường.

Thứ ba, có khả năng cung cấp số lượng lớn. Theo TS Từ Minh Thiện, Việt Nam, ngành nông nghiệp của Việt Nam rất đa dạng, nhưng khả năng cung cấp số lượng lớn là chưa tốt. Do đó, cần phải có sự liên kết  chặt chẽ.

Thứ tư, phải có chất lượng tốt, vị ngon phải đồng đều và bao bì phải đảm bảo.

Thứ năm, là an toàn vệ sinh thực phẩm.

“Xu hướng tiêu thụ thực phẩm trên thế giới hiện nay chúng ta phải cố gắng xâm nhập được vào các thị trường ngách. Đồng thời, giao thoa giữa 3 vấn đề là cái sức khỏe, thuận tiện, thích thú. Đây là giá trị cốt lõi của sản phẩm, phải có sự khác biệt. Nông sản phải luôn luôn đảm bảo được giá trị cốt lõi”, TS. Từ Minh Thiện chia sẻ.

Về vấn đề liên kết chuỗi cung ứng, TS. Từ Minh Thiện cho rằng, tất cả các liên kết cuối cùng chỉ để phục vụ khách hàng. Theo ông, có 3 loại liên kết là liên kết chiều ngang, liên kết chiều dọc và liên kết hỗn hợp.

Đối với liên kết chiều ngang, ông cho rằng liên kết này khá phức tạp, làm sao mọi người hợp tác theo tinh thần của hợp tác xã một cách tự nguyện và có lợi. Việt Nam có thể nghiên cứu các mô hình hợp tác xã của Nhật Bản - đây là mô hình hợp tác xã rất thành công nhưng tại Việt Nam thì vẫn còn nhiều khó khăn, rất ít hợp tác xã thành công.

Liên kết chiều dọc cần phải có một doanh nghiệp lớn để dẫn đầu, như kiểu "chim đầu đàn". Liên kết này theo mô hình "đàn chim bay" và đây là mô hình rất quan trọng. Tuy nhiên, ông cho rằng, mô hình liên kết này lại khá lỏng lẻo. Một sự thay đổi về giá trên thị trường có thể làm liên kết này thay đổi ngay. Vai trò của địa phương rất quan trọng nhưng vẫn chưa rõ trách nhiệm, quyền lợi của địa phương khiến địa phương khó tham gia.

“Trong khi đó, liên kết hỗn hợp sẽ khắc phục được một số nhược điểm của 2 loại liên kết trên. Các phương pháp đánh giá chuỗi cung ứng, trong đó, khó nhất là khả năng kiểm soát được lợi ích của các cá nhân và tổ chức trong chuỗi”, TS. Từ Minh Thiện đánh giá.

Nhận xét thực trạng chuỗi cung ứng nông sản hiện nay, TS. Từ Minh Thiện cho rằng, hiện nay việc đầu tư cho sản xuất nông sản chưa có nhiều và chưa dám đầu tư mạnh vì sản xuất nông sản khá bấp bênh. Do đó, cần phải tính được tổng cầu của tất cả thị trường rồi mới ra được kế hoạch sản xuất. 

FFFF

Từ trái qua phải: Ông Nguyễn Văn Phụng - nguyên Cục trưởng Cục Quản lý thuế doanh nghiệp lớn Tổng cục Thuế; Ông Võ Tân Thành - Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); Ông Trần Ngọc Liêm - Giám đốc VCCI chi nhánh TP HCM.

Ông cũng cho rằng, Việt Nam có rất nhiều chính sách nhưng để tiếp cận chính sách không dễ, nhất là đối với người nông dân. Bên cạnh đó, chất lượng nguồn nhân lực, ứng dụng công nghệ cao vẫn còn hạn chế. “Liên kết giữa các vùng, trong sản xuất nông nghiệp không tính theo địa phương, mà phải tính theo vùng nguyên liệu mà vùng nguyên liệu tính theo thổ nhưỡng”, TS. Từ Minh Thiện chia sẻ.

Từ đó, TS. Từ Minh Thiện kiến nghị, cần nhiều tiềm năng để phát triển chuỗi cũng như để đạt được hiệu quả cao. Các giải pháp cần được triển khai đồng bộ, xuyên suốt và linh hoạt. Về lâu dài, cần thay đổi tư duy liên kết sản xuất kinh doanh của người sản xuất lẫn cấp quản lý.

Ông Thiện cho rằng, trong giai đoạn đầu, vai trò nhà nước cũng như các Viện, Trường có ý nghĩa và tác động quan trọng trong việc hình thành và duy trì các thành viên trong liên kết theo chuỗi giá trị thông qua các chính sách ưu đãi vốn vay, hỗ trợ kỹ thuật và thị trường. Sau đó, sẽ giảm dần các hỗ trợ về tài chính, chỉ còn các hỗ trợ về mặt kỹ thuật, về xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu. Để dần dần, các chuỗi sẽ được hình thành và vận hành theo hướng tự giác, dựa trên hiệu quả kinh tế và sự hợp tác tự nguyện giữa các thành viên.

Từ thực tiễn của doanh nghiệp ông Bùi Văn My - Phó Tổng Giám đốc Tổng Cty Nông nghiệp Sài gòn TNHHMTV cho biết, công ty đang liên kết rất nhiều và cũng có những khó khăn khi liên kết như khó tìm được đơn vị sẵn sàng chia sẻ, ổn định lâu dài.

ông Bùi Văn My - Phó Tổng Giám đốc Tổng Cty Nông nghiệp Sài gòn TNHHMTV

Ông Bùi Văn My - Phó Tổng Giám đốc Tổng Cty Nông nghiệp Sài gòn TNHHMTV

Ông My cho rằng, khâu quản lý phải chặt, đảm bảo giá cạnh tranh trên thị trường nhưng đảm bảo được tính an toàn và bền vững của sản phẩm. Bên cạnh đó, các chính sách đưa ra phải nhất quán, thống nhất từ trên xuống dưới. Ví dụ TP HCM cấm giết mổ thủ công nhưng các tỉnh không cấm, các doanh nghiệp mang ra ngoài mổ rồi lại mang lại TP HCM. Do vậy, chính sách cần phải nhất quán.

CÁCGIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN CHUỖI CUNG ỨNG NÔNG NGHIỆP AN TOÀN

Ngày nay, trong bối cảnh kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu và có các thuận lợi thương mại, các hợp tác song phương đa phương cùng nhiều quốc gia, chúng ta đã ký kết hơn 15 Hiệp định thương mại, đây không chỉ là cơ hội để Việt Nam phát huy vị thế cường quốc nông nghiệp, từ nông nghiệp để tạo ra, khai thác giá trị cộng hưởng cùng nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác, mà còn là lợi thế để nông nghiệp ngày càng khẳng định vị trí không thể thay thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Để đạt đến mục tiêu như vậy, ngành nông nghiệp Việt Nam nói riêng và các ngành liên quan, tham gia trong cùng chuỗi cung ứng có rất nhiều việc phải làm. Các doanh nghiệp ở từng địa phương cũng sẽ có những lợi thế và những thách thức cần vượt qua để hướng đến phát triển, là một trong hành trình chuỗi cung ứng nông nghiệp an toàn.  

Với những góc nhìn từ người trong cuộc và đại diện các bên từ cơ quan quản lý, các chuyên gia, Hiệp hội đến các doanh nghiệp… Ban tổ chức đã cùng các khách mời tham gia vào phiên thảo luận của Diễn đàn với phần thảo luận theo chủ đề: "Các giải pháp thúc đẩy phát triển chuỗi cung ứng nông nghiệp an toàn".  

Phát biểu đề dẫn phiên thảo luận, ông Ngô Xuân Chinh - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam cho biết, cần phát triển nền nông nghiệp theo hướng hàng hóa tập trung, hiện đại, bền vững; nâng cao giá trị gia tăng, sản xuất hàng hóa quy mô lớn trên cơ sở phát huy các lợi thế của từng địa phương….

Cùng với đó, đưa sản phẩm nông nghiệp tham gia chuỗi giá trị trong nước và hội nhập quốc tế nhằm mục tiêu hỗ trợ nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh ngành hàng rau, hoa, quả tiếp cận tiến bộ kỹ thuật mới, thúc đẩy sản xuất bền vững và tạo ra giá trị sản xuất cao.

Ông Ngô Xuân Chinh - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Ông Ngô Xuân Chinh - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Bên cạnh đó, ông Chinh cũng cho rằng, các đơn vị cần chú ý đến phạm vi của bộ tiêu chuẩn, đánh giá rủi ro và quyết định các biện pháp kiểm soát; lập kế hoạch kiểm soát để đến khi sau mùa vụ ghi chép lại nhằm đánh giá về chu kỳ sản xuất được xây dựng trước đó.

Hiện nay, trong quy định mã số vùng trồng còn nhiều bất cập quy định về diện tích sản xuất, quy định khác xa với thực tiễn. Do đó, cần xây dựng mô hình HTX kiểu mới, cần có quỹ hỗ trợ phúc lợi để bù lỗ nếu bị giảm giá, thị trường kém…

Về đào tạo, kiểm tra nội bộ lẫn nhau, kiểm tra, xây dựng bộ quy trình riêng, theo ông Chinh, hiện hay có nhiều bất cập từ giống đến sau thu hoạch - thất thoát sau thu hoạch. Vấn đề sơ chế, bảo quản, theo ông Chinh, cần vận chuyển nhanh và khép kín; có quy trình vận chuyển chuyên sâu, ứng dụng quản lý hành chính, nhân sự sản xuất; chu trình nông nghiệp tuần hoàn…

ông Trần Ngọc Liêm - Giám đốc VCCI HCM

Ông Trần Ngọc Liêm - Giám đốc VCCI HCM

Điều phối, ông Trần Ngọc Liêm - Giám đốc VCCI HCM cho biết, trong lúc nhiều mặt hàng giảm sút nhưng nông sản thì lại vẫn tăng, gạo tăng 50,7% trong tháng 8. Đóng góp nông nghiệp xuất khẩu rất là cao. Đây là cơ hội rà soát và nâng cao giá trị nông sản Việt Nam. Chúng tôi rất quan tâm chia sẻ thực tiễn của các địa phương trong sản xuất nông sản đặc biệt là trong việc phát triển chuỗi. Ông Huỳnh Quang Đức - Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Bến Tre có thể chia sẻ về vấn đề này?

Ông Huỳnh Quang Đức - Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Bến Tre cho biết: Thứ nhất, để làm chuỗi cung ứng tốt phải có sự nhận diện về mục tiêu. Chúng tôi quan niệm mục tiêu là thị trường, có thị trường mới có doanh nghiệp, có thị trường hữu cơ tự khắc sẽ có doanh nghiệp hữu cơ. Thị trường mới là yếu tố then chốt của chuỗi.

Ông Huỳnh Quang Đức – Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Bến Tre

Ông Huỳnh Quang Đức – Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Bến Tre

Thứ hai, ông Đức thích khái niệm “thị trường tiêu chuẩn” hơn là khái niệm “thị trường khó tính. Chuỗi cung ứng là nền tảng đi vào tất cả thị trường. Tùy vào thị trường mà chuỗi cung ứng biến đổi theo phù hợp, không nên cứng nhắc về chuỗi cung ứng. Vị trí của nhà nước ngày càng quan trọng. Những địa phương nào nhà nước quan tâm phát triển chuỗi, địa phương đó phát triển khác hẳn.

Người tiêu dùng cũng rất quan trọng, do đó, ông Đức cho rằng cần quan tâm tới con đường đi tới tận người tiêu dùng. Phải xem xét lại thái độ, hướng tới tận người tiêu dùng.

Thị trường nội địa nên chú trọng quan tâm không chỉ xuất khẩu. Bởi nhu cầu thị trường nội địa là rất lớn và nếu không cẩn thận thì sẽ thành nơi tiêu thụ cho hàng nước ngoài.

Về vấn đề xung đột lợi ích giữa nông dân và doanh nghiệp. Ông Đức cho rằng, nông dân có công cụ của mình để “đối phó” với doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng có công cụ “đối phó” của mình. Mâu thuẫn lợi ích rất lớn nên việc xây dựng quan hệ đối tác doanh nghiệp-người dân bền vững là rất quan trọng.

Chia sẻ tại phiên thảo luận, ông Lê Văn Đông – Giám đốc Sở Nông nghiệp tỉnh Trà Vinh cho biết: Chuỗi cung ứng sản xuất trong an toàn nông nghiệp là cầu nối lớn.

Ông Lê Văn Đông – Giám đốc Sở Nông nghiệp tỉnh Trà Vinh.

Ông Lê Văn Đông – Giám đốc Sở Nông nghiệp tỉnh Trà Vinh.

Nói an toàn là nói đến câu chuyện phải liên kết của các nhà, gồm: Nhà nước, Nhà nông, Nhà khoa học, Doanh nghiệp…. Việc liên kết, hình thức liên kết từ cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào cho đến tổ chức sản xuất, gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Song để cụ thể hoá chính sách vào thực tế, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết 78/2018 về phê duyệt chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

Bên cạnh đó, thì UBND tỉnh Trà Vinh cũng ban hành Quyết định số 2510 về việc phê duyệt các ngành hàng, sản phẩm quan trọng cần khuyến khích và ưu tiên hỗ trợ thực hiện liên kết sản xuất với tiêu thụ sản phẩm.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn nhiều khó khăn đối với các hộ nông dân, HTX, doanh nghiệp, cụ thể: Thị trường sản phẩm còn nhiều rủi ro nên rất ít doanh nghiệp đầu tư vào khâu chế biến, tiêu thụ trong lĩn vực này.

Đặc biệt, trong những năm gần đây tác động của biến đổi khí hậu, dịch bệnh đã dẫn đến mất mùa, làm giảm chất lượng, năng suất, sản lượng cây trông, vật nuôi. Do đó, HTX, nông dân chưa đáp ứng được yêu cầu trong hợp đồng của doanh nghiệp đặt ra về chất lượng, tính đồng nhất, duy trì sản lượng ổn định phục vụ cho tiêu thụ, chế biến theo yêu cầu đối tác nhập khẩu.

Cụ thể, tại khoản 3 Điều 11 Nghị định 98 quy định về điều kiện để được hỗ trợ, như: Đối với sản phẩm nông nghiệp có chu kỳ nuôi, trồng, khai thác từ 1 năm trở lên; thời gian liên kết tối thiểu 5 năm… Ở điều kiện này, các doanh nghiệp cho rằng khó thực hiện do thị trường đầu ra của hầu hết các nông sản không ổn định; giá cả thay đổi theo mùa vụ…

Tiếp tục điều phối phiên thảo luận, ông Trần Ngọc Liêm - Giám đốc VCCI HCM cho biết, TP. HCM là một trung tâm lớn, liên kết vùng có thành công hay không cũng phụ thuộc vào vai trò rất quan trọng của TP. HCM. Ông Nguyễn Văn Sơn - Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn TP HCM có ý kiến chia sẻ với diễn đàn?

Ông Nguyễn Văn Sơn - Đại diện Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn TP HCM cho biết, TP. HCM là một thị trường tiêu thụ lớn, từ nhiều năm qua TP. HCM đã rất quan tâm tới chính sách chuỗi cung ứng sản xuất an toàn. Thành phố đã có ý thức triển khai sớm các chuỗi thực phẩm an toàn cũng như các chuỗi giá trị nông sản.

Một trong những mục tiêu quan trọng là phải kiểm soát được các công đoạn từ sản xuất tới chế biến rồi tới tận người tiêu dùng. Nếu kiểm soát tốt thì sản phẩm rất an toàn và phát triển bền vững.

Ông Nguyễn Văn Sơn - Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn TP HCM

Ông Nguyễn Văn Sơn - Đại diện Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn TP HCM

“Chúng ta sẽ phát huy việc hợp tác chặt chẽ, kết nối với các vùng để làm sao hình thành một mạng lưới. Thực phẩm được giao lưu giữa TP. HCM và các tỉnh khác. TP. HCM có nông sản từ các tỉnh khác mang về tiêu thụ, ngược lại cũng có hàng đi ra tỉnh ngoài” – ông Sơn cho biết.

Thời gian tới, ông Sơn cho rằng cần một số giải pháp tập trung. Mấu chốt là phải làm sao phát triển được chuỗi cung ứng từ sản xuất tới tiêu thụ an toàn, bền vững. TP. HCM sẽ tiếp tục hỗ trợ về thông tin, lập các trang web cung cấp thông tin đáp ứng các yêu cầu của các bên, và đồng thời qua thông tin đó cũng dự báo được các nhu cầu của thị trường để phục vụ việc lập kế hoạch sản xuất, tiêu thụ.

Thành phố cũng sẽ có các cơ chế hỗ trợ đầu tư. Làm sao có cơ chế thu hút đầu tư từ sơ chế đến sản xuất. Thành phố đang chuẩn bị trình hội đồng chính sách khuyến khích đầu tư, kích cầu đầu tư, thu hút doanh nghiệp tham gia, cũng như chính sách hợp tác thương mại. Việc này để xây dựng chuỗi cung ứng bền vững, vừa phục vụ thị trường trong nước, vừa phục vụ xuất khẩu.

Thành phố đang triển khai đề án thí điểm chuỗi giá trị, điều phối, liên kết các nhà một cách chuẩn hơn, hiệu quả hơn. Dự kiến năm 2025 sẽ sơ kết.

Ông Trần Ngọc Liêm - Giám đốc VCCI HCM đặt vấn đề: Không phải bản thân hộ nông dân hay hợp tác xã quyết định, mà còn phụ thuộc vào cả nguồn đầu vào, vật tư. Vấn đề logistics nông sản cũng là vấn đề quan trọng vì yêu cầu về thời gian, bảo quản cao. Ông Trần Chí Dũng có chia sẻ gì về điều này?

Ông Trần Chí Dũng, Trưởng Ban Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistic Việt Nam (VLA) cho biết, nông nghiệp là một mạng lưới nhiều điểm cung ứng, nhiều điểm tiêu thụ. Chúng ta đang sống trong thế giới phẳng nên có điều kiện cho toàn thế giới biết “mình đang có gì”. Việt Nam có cơ hội sử dụng công nghệ để kết nối cung cầu.

"Ở đây tôi muốn nhấn mạnh tới vấn đề hạ tầng. Về hạ tầng cứng hiện đầu tư đang thiếu tính toán, nơi thừa nơi thiếu. Về hạ tầng mềm vận hành hiệu quả thấp, không thể quản lý xuyên suốt chuỗi cung ứng". - ông Dũng nói.

Ông Trần Chí Dũng, Trưởng Ban Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistic Việt Nam (VLA)

Ông Trần Chí Dũng, Trưởng Ban Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistic Việt Nam (VLA)

Hạ tầng cứng Nghiên cứu Đề án Logistics đã được Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn đề xuất (hệ thống trung tâm logistics 3 cấp: Trung tâm logistics tại các vùng sản xuất, Trung tâm logistics nông nghiệp gắn với thị trường trượng điểm, Trung tâm logistics phục vụ xuất nhập khẩu nông sản).

Ông Dũng cho rằng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã hiểu các vấn đề, nỗi đau của thị trường đang xảy ra, nên đề án này rất có tiềm năng hiệu quả. Đề án này được Bộ trưởng phê duyệt và trình Thủ tướng nên các tỉnh có thể áp dụng.

Một vấn đề nữa theo ông Dũng, quan trọng nhưng ít người để ý đó là hạ tầng mềm. Điểm cực thiếu đó là công nghệ thông tin, chưa có áp dụng nào phù hợp để hỗ trợ liên kết nông sản. TP HCM và các tỉnh xung quanh cần hình thành một mạng lưới vừa sản xuất và tiêu thụ.

Trong thời đại này tất cả nhu cầu đều được dự đoán trước nên cần có những hệ thống thông minh để thực hiện.

Phát biểu tổng kết Diễn đàn, Nhà báo Phạm Hùng - Phó Tổng Biên Tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp, Trưởng ban tổ chức Diễn đàn cho biết: Nông sản của Việt Nam là một trong những mũi nhọn hàng hóa chủ lực trong nền kinh tế và nhiều mặt hàng có tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam. Việc xây dựng và phát triển chuỗi cung ứng sẽ rút ngắn khoảng cách, gia tăng hiệu quả hoạt động từ nhà sản xuất tới người tiêu dùng, nhằm tạo ra giá trị hàng hóa nông nghiệp bền vững.

Nhà báo Phạm Hùng - Phó Tổng Biên Tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp, Trưởng ban tổ chức Diễn đàn

Nhà báo Phạm Hùng - Phó Tổng Biên Tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp, Trưởng ban tổ chức Diễn đàn

Muốn xây dựng chuỗi cung ứng phát triển và bền vững, cốt lõi về bản chất và trước hết là: Tăng cường sự liên kết - Nâng cao và thực hiện đồng bộ mối liên kết giữa 6 nhà: Nhà nước, Nhà nông, Doanh nghiệp, Nhà ngân hàng, Nhà phân phối, phát huy vai trò chủ thể của nông dân – Trong đó doanh nghiệp là khâu nối quan trọng nhất để đảm bảo quan hệ nhà nông – người tiêu dùng; trong nước và thế giới. Còn mục tiêu tối cao của chuỗi là thị trường - có thị trường mới có chuỗi.

Vì vậy thứ nhất, cần có chính sách khuyến khích tháo gỡ khó khăn vướng mắc doanh nghiệp ngay, nếu có và các cơ chế hỗ trợ cụ thể trong chính sách khuyến khích ở mọi khâu, mọi nhà. Chẳng hạn như ý kiến của doanh nghiệp về quy định hạn chế các lò mổ thủ công tại TP HCM, sự bất ổn về tỷ giá, việc đầu tư vùng trồng, về Nghị định số 98/2018/NĐ-CP…v.v là những vấn đề mong được Nhà nước quan tâm.

Thứ hai, chính sách thuế và công cụ thuế là quan trọng để tạo động lực khuyến khích trong đầu tư, phát triển, sản xuất nông nghiệp, kinh doanh hàng hóa nông sản.

Hiện đang có sự bất hợp lý thuế GTGT với đầu vào của nông nghiệp, tăng gánh nặng đầu vào, gánh nặng cho nông dân khi giá bán bị đẩy lên, thiệt hại cho ngân sách và cả nền kinh tế chịu thiệt hại. Bất cập đã tồn tại 8 năm rất cần được được sửa đổi thuế GTGT đối với hàng hóa, nguyên liệu đầu vào.

Thứ ba, các nhà cần có sự đầu tư thích đáng cho công nghệ trong kỷ nguyên số, đầu tư công nghệ, ứng dụng công nghệ thông tin là hướng đi cần thiết để tối ưu hóa giá trị chuỗi cung ứng hàng hóa nông sản Việt Nam. Trong đó, sự vận động chủ động của doanh nghiệp cần được đề cao. Một số chuỗi cung ứng nông sản đã ứng dụng thành công công nghệ mới như công nghệ thông tin, công nghệ chuỗi khối để kết nối sản xuất và tiêu dùng, truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông sản nhằm gia tăng giá trị.

Cùng với đầu tư công nghệ là sự kết nối và chia sẻ dữ liệu, hệ thống thông tin với các thành viên trong chuỗi cung ứng, xuất phát từ vai trò trung tâm của doanh nghiệp.

Thứ tư, cần đề cao vai trò Nhà nước, trong xây dựng chuỗi cung ứng sản xuất nông nghiệp an toàn, trong xây dựng quan hệ đối tác công bằng, đặc biệt quan hệ nông dân – doanh nghiệp và kiểm soát an toàn qua các công đoạn, khâu trong chuỗi.

Thứ năm, nắm bắt và điều chỉnh theo xu hướng an toàn thực phẩm trên toàn cầu, chuyển đổi chuỗi cung ứng theo chuỗi giá trị ngành hàng, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng và mọi thị trường.

Thứ sáu, vai trò của cơ sở hạ tầng và đặc biệt hệ thống hỗ trợ phân phối, bảo quản, chế biến sau thu hoạch là vô cùng quan trọng. Theo đó, rất cần có sự chú trọng đầu tư, hoàn thiện chuỗi hạ tầng dịch vụ logistics, xây dựng trung tâm liên kết logistics và xây dựng hạ tầng mềm để liên kết và phục vụ các thành viên của chuỗi cung ứng nông nghiệp an toàn theo tổng cung – tổng cầu hàng hóa.

Cuối cùng, nhà báo Phạm Hùng muốn nhấn mạnh và chia sẻ thêm, phát triển chuỗi cung ứng nông nghiệp an toàn có nghĩa, và cũng là sự yêu cầu cấp thiết chúng ta cần quyết tâm triển khai định hướng chuyển đổi tư duy làm nông nghiệp theo hướng nông nghiệp xanh, làm nông nghiệp có trách nhiệm. Chuỗi cung ứng an toàn cũng có nghĩa là chuỗi cung ứng xanh, đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, hướng tới sức khỏe, an toàn người tiêu dùng sau cùng.

"Thay mặt Ban tổ chức, chúng tôi rất mong sẽ tiếp tục nhận được những ý kiến, đóng góp của các đại biểu, doanh nghiệp để chúng tôi tổng hợp, tổng kết lại sau đó sẽ chuyển những ý kiến đóng góp của các chuyên gia, doanh nghiệp đến các cơ quan quản lý Nhà nước, để điều chỉnh, làm sao cho hợp lý. Đồng thời, tạo mọi điều kiện cho phát triển nông nghiệp bền vững trong thời gian tới". - Nhà báo Phạm Hùng nói.

Có thể bạn quan tâm

  • CHUỖI CUNG ỨNG NÔNG NGHIỆP AN TOÀN: Cần thay đổi tư duy liên kết sản xuất kinh doanh

    10:43, 29/09/2023

  • CHUỖI CUNG ỨNG NÔNG NGHIỆP AN TOÀN: Liên kết hợp tác cần tuân thủ 4 nguyên tắc

    10:21, 29/09/2023

  • CHUỖI CUNG ỨNG NÔNG NGHIỆP AN TOÀN: Nỗ lực tham gia chuỗi giá trị nông sản toàn cầu

    09:01, 29/09/2023

  • “Cầu nối” hoàn thiện chuỗi cung ứng nông nghiệp

    09:00, 29/09/2023

NHÓM PHÓNG VIÊN