[VBF giữa kỳ 2019]: Giới hạn sở hữu nước ngoài cản trở sự phát triển của fintech
Nhiều doanh nghiệp bày tỏ lo ngại quy định về giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài đối với các công ty fintech sẽ khiến ngành công nghiệp fintech của Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng tiêu cực.
Hiện tại, Việt Nam đang xem xét hạn chế quyền sở hữu nước ngoài trong các công ty fintech. Đáng lưu ý, trong dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 (Nghị định số 101), Ngân hàng Nhà nước có đề xuất trần 30% sở hữu nước ngoài trong các công ty cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán.
Về vấn đề này, tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ 2019 được tổ chức sáng nay (26/6) nhiều doanh nghiệp bày tỏ lo ngại ngành công nghiệp fintech của Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi quy định về giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài đối với các công ty fintech mà Ngân hàng Nhà nước đang dự thảo.
Bà Amanda Rasmussen, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham) cho biết, sự tăng trưởng của lĩnh vực dịch vụ tài chính và fintech sẽ phụ thuộc vào việc triển khai khung pháp lý, quy định và chính sách thuận lợi cho đầu tư và cho phép các lĩnh vực này tiếp tục đóng góp cho sự thịnh vượng và phổ cập tài chính của Việt Nam.
“Chúng tôi quan ngại về một số quy định gần đây về lĩnh vực thanh toán và fintech. Kế hoạch áp dụng giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong lĩnh vực thanh toán và fintech sẽ hạn chế đáng kể các công ty khởi nghiệp fintech Việt Nam trong việc huy động vốn từ các tổ chức đầu tư nước ngoài, từ đó hạn chế khả năng thu hút nhân tài và khiến họ kém cạnh tranh hơn so với các doanh nghiệp khác trong khu vực”, bà Amanda Rasmussen cho biết.
Theo đại diện của Amcham giới hạn như vậy sẽ cản trở sự phát triển của ngành.
“Kế hoạch áp dụng giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong lĩnh vực thanh toán và fintech sẽ hạn chế đáng kể các công ty khởi nghiệp fintech Việt Nam trong việc huy động vốn từ các tổ chức đầu tư nước ngoài, từ đó hạn chế khả năng thu hút nhân tài và khiến doanh nghiệp Việt Nam kém cạnh tranh hơn so với các doanh nghiệp khác trong khu vực”, đại diện Amcham chia sẻ.
Vì vậy, bà Amanda Rasmussen hy vọng rằng chính phủ Việt Nam sẽ duy trì các chính sách tạo điều kiện cho dịch vụ fintech có cơ hội đóng góp vào công cuộc đổi mới công nghệ và phổ cập tài chính tại Việt Nam.
Tương tự, ông Frederick Burke, Trưởng Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại cho biết, nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại của diễn đàn VBF cho rằng, việc hạn chế quyền sở hữu nước ngoài tại các công ty fintech có thể ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của fintech tại Việt Nam.
Vì vậy, Trưởng Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại đưa ra kiến nghị tới Chính phủ Việt Nam bảo đảm rằng sẽ không có hạn chế về sở hữu nước ngoài đối với các công ty fintech để không cản trở sự phát triển của ngành này tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, nhóm công tác cũng chỉ ra rằng pháp luật Việt Nam đang thiếu quy định hướng dẫn đã khiến các doanh nghiệp fintech gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tìm hướng phát triển cho ngành công nghiệp này tại Việt Nam.
Theo đó, hiện không có ngành nghề kinh doanh cụ thể cho dịch vụ cho vay ngang hàng và doanh nghiệp không rõ họ nên đăng ký ngành nghề kinh doanh nào để cung cấp dịch vụ cho vay ngang hàng tại Việt Nam.
“Chúng tôi đã thấy các doanh nghiệp đăng ký các ngành nghề kinh doanh khác để cung cấp dịch vụ cho vay ngang hàng và chấp nhận nguy cơ không tuân thủ với các giấy phép kinh doanh của họ (như Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp) khi vận hành một dịch vụ có thể không được đăng ký trong các giấy phép kinh doanh của họ”, nhóm công tác nêu.
Do đó, nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại kiến nghị Chính phủ ban hành thêm quy định hướng dẫn cho các dịch vụ fintech mới, đặc biệt là các dịch vụ fintech như dịch vụ cho vay ngang hàng đã và đang hoạt động tại Việt Nam.