Khơi dậy ý chí, khát vọng phát triển đất nước
Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nghị quyết 43-NQ/TW tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc.
>>Đường lối đối ngoại Đại hội Đảng XIII kế thừa, phát triển trong thời kỳ đổi mới
Thực hiện Công văn số 2007-CV/ĐUK ngày 27/11/2023 của Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương về việc triệu tập Hội nghị nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ưởng Đảng khoá XIII, Đảng uỷ Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức kết nối đường truyền trực tiếp từ điểm cầu Đảng uỷ Khối tại Hội trường số 1, toà nhà VCCI, số 9 Đào Duy Anh, Đống Đa, Hà Nội.
Tham dự có các thành viên Đảng đoàn; Ban Thường vụ Đảng uỷ; Ban Chấp hàng Đảng bộ; Bí thư, Phó Bí thư Đảng bộ, chi bộ và các đồng chí đảng viên các Đảng bộ, chi bộ trực thuộc VCCI tại Hà Nội.
Tại Hội nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đã truyền đạt chuyên đề “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đã khái quát vài nét về Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cũng lý giải vì sao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII lại ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về "tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc". Đồng thời, giới thiệu những nội dung chủ yếu của Nghị quyết số 43-NQ/TW, đặc biệt là những vấn đề mới, vấn đề mà Trung ương đã làm rõ về truyền thống đoàn kết toàn dân tộc.
Nghị quyết 43: Tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc
Theo Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, nhân dân tham gia, quyết định các chính sách liên quan đến cuộc sống, những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước. Đồng thời tăng cường hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
“Tuy nhiên, một số chính sách chưa sát với thực tiến, đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo còn khó khăn, phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng" còn hạn chế”, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng nói.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng nêu rõ lý do Nghị quyết 43 được ban hành vào thời điểm hiện nay. Thứ nhất, nội dung, nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết 23 chúng ta đã thực hiện cơ bản xong, nhưng vấn đề phát huy truyền thống và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là một vấn đề xuyên suốt và lâu dài.
"Do đó, chúng ta phải tính toán nội dung, nhiệm vụ, giải pháp cho vấn đề này trong tình hình mới”, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng bày tỏ.
>>Đường lối đối ngoại Đại hội Đảng XIII kế thừa, phát triển trong thời kỳ đổi mới
>>Đại hội Đảng XIII và nền tảng khát vọng 100 năm
Thứ hai, qua 20 năm thực hiện Nghị quyết 23 Trung ương cũng đánh giá còn một số hạn chế khuyết điểm và cũng rút ra một số bài học kinh nghiệm, thực hiện vấn đề này tốt hơn.
Thứ ba, thực tiễn sau 20 năm thực hiện Nghị quyết 23 và gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều thay đổi, nhận thức về đoàn kết về đại đoàn kết cũng có nhiều yếu tố mới.
“Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phấn đấu đưa nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, đòi hỏi phải đẩy mạnh, phát huy cao độ truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Nghị quyết 43 đặt quan điểm tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc”, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng nhấn mạnh.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cũng khẳng định, đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta, đoàn kết là đường lối chiến lược và xuyên suốt của Đảng, là nguồn sức mạnh to lớn, là nhân tố có ý nghĩa quyết định mọi thành công. Đó là, đoàn kết trong đảng, đoàn kết trong dân và đoàn kết quốc tế.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng nêu rõ, phương thức quan trọng để phát huy truyền thống sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đó là đoàn kết toàn dân tộc phải gắn với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ góp phần thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết 42: Giai đoạn mới đòi hỏi phải nâng cao chất lượng chính sách xã hội
Quán triệt Nghị quyết 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, Thủ tướng Phạm Minh Chính tập trung vào một số vấn đề trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết, với 5 nội dung chính.
Đó là, các yếu tố nền tảng của chính sách xã hội, đánh giá khái quát 10 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012, sự cần thiết ban hành Nghị quyết về đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, những nội dung chính của Nghị quyết số 42-NQ/TW, những điểm mới nổi bật của Nghị quyết số 42-NQ/TW.
Về những yếu tố nền tảng của chính sách xã hội, Thủ tướng nêu rõ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã tổng kết 5 bài học chủ yếu, đó là nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết (đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế). Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Cùng với đó, tập trung xây dựng 3 yếu tố nền tảng: Nền dân chủ XHCN, phát huy ý chí và sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Nhà nước pháp quyền XHCN - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cương lĩnh xác định rõ:"Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Phân tích chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về một số lĩnh vực trụ cột (xây dựng Đảng, phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại, quốc phòng – an ninh, văn hóa), Thủ tướng nêu rõ Đại hội XIII của Đảng xác định rõ 3 đột phá chiến lược về thể chế, nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng; trong đó nguồn nhân lực được xác định là yếu tố then chốt cho phát triển bền vững.
Theo Thủ tướng, tất cả các yếu tố nền tảng nêu trên đều liên quan đến con người, đến nhân dân. Với nguyên tắc xuyên suốt con người là trung tâm của chính sách xã hội - tất cả vì con người, vì nhân dân.
Lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, nguồn lực, động lực quan trọng nhất và là mục tiêu của sự phát triển; không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường để đổi lấy tăng trưởng kinh tế đơn thuần.
Chính sách chăm lo cho con người là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội; thể hiện đặc trưng, bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN.
Tăng trưởng kinh tế gắn với bảo đảm chính sách xã hội; tạo điều kiện để nhân dân thụ hưởng thành quả của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Theo Thủ tướng, đây là lĩnh vực lớn, phạm vi rộng, có ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng đến tất cả các tầng lớp nhân dân và toàn xã hội, được triển khai ở tất cả các cấp, các ngành, các địa phương.
Nhấn mạnh về sự cần thiết ban hành Nghị quyết mới về đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, Thủ tướng cho biết sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 15, chúng ta cơ bản đã đạt được mục tiêu tổng quát đã đề ra. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, bất cập cần tập trung khắc phục, giải quyết trong thời gian sớm nhất.
Cùng với đó, yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước trong giai đoạn mới đòi hỏi phải tiếp tục mở rộng, đổi mới và nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về việc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
Bối cảnh mới và thực tiễn quản lý phát triển xã hội đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tiếp tục rà soát, hoàn thiện, xây dựng chính sách an sinh xã hội toàn diện hơn, đa tầng hơn, hiện đại hơn, bao trùm và bền vững hơn, bảo đảm an sinh, an ninh, an dân, nhất là trước những cú sốc và nỗ lực phấn đấu vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Cùng với sự phát triển của đất nước, nhu cầu của nhân dân về thụ hưởng các chính sách xã hội ngày càng cao hơn cả về số lượng và chất lượng, trong đó có tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Nghị quyết Đại hội XIII yêu cầu nhận thức đầy đủ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người.
Triển khai đồng bộ, toàn diện các mục tiêu kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường, trên cơ sở đó, đổi mới, phân bổ nguồn lực hợp lý để nâng cao hiệu quả phát triển xã hội. Xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững, hài hòa.
Phân tích về một số mô hình chính sách xã hội điển hình trên thế giới hiện nay, Thủ tướng nêu rõ chúng ta lựa chọn mô hình chính sách xã hội phù hợp với đặc điểm, điều kiện, hoàn cảnh nước ta.
Nghị quyết 45: Tạo động lực cho đội ngũ trí thức phát triển toàn diện
Truyền đạt Nghị quyết 45-NQ/TW ngày 24/11/2023 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa cho biết, sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW khoá X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đội ngũ trí thức Việt Nam có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng; là lực lượng đi đầu trong nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học, công nghệ, hội nhập quốc tế.
Nhiều công trình, sản phẩm khoa học, công nghệ, văn hóa, tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị cao, góp phần quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một bộ phận trí thức có năng lực, trình độ, tiệm cận với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức còn bất cập, thiếu cơ chế, chính sách đột phá trong đầu tư, huy động nguồn lực đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng, tôn vinh trí thức, nhất là trí thức tinh hoa, thiếu hụt chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực quan trọng; chưa tạo được môi trường thuận lợi động viên trí thức chủ động nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ.
Về quan điểm phát triển đội ngũ trí thức theo Nghị quyết 45, ông Nguyễn Trọng Nghĩa nêu rõ, thành tố thứ nhất, đội ngũ trí thức phải là lực lượng lao động trí óc, có trình độ học vấn cao, chuyên môn sâu về một lĩnh vực, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo.
Thành tố thứ hai, trí thức phải giàu lòng yêu nước, có đạo đức và lý tưởng cách mạng gắn bó với Đảng, Nhà nước và dân tộc.
Thành tố thứ ba, đội ngũ trí thức phải có trách nhiệm tiên phong tạo ra sản phẩm tinh thần, vật chất chất lượng cao cho xã hội, là nguồn lực đặc biệt trong phát triển kinh tế tri thức, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và phát triển nền văn hóa Việt Nam.
Thành tố thứ tư, đội ngũ trí thức là nhân tố quan trọng trong nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, nâng tầm trí tuệ và sức mạnh dân tộc, đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Nghị quyết đặt mục tiêu đến năm 2030 phát triển đội ngũ trí thức về số lượng và chất lượng, nhất là đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành trong lĩnh vực then chốt, trọng yếu, lĩnh vực mới, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách đảm bảo khả thi, đồng bộ, tạo cơ hội, điều kiện, động lực cho đội ngũ trí thức phát triển toàn diện, nâng cao năng lực, trình độ và cống hiến cho đất nước.
Phát triển cơ sở nghiên cứu, cơ sở giáo dục đạt trình độ tiên tiến thuộc nhóm hàng đầu châu Á; trong đó Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh được xếp hạng trong nhóm 500 đại học hàng đầu thế giới.
Kết luận Hội nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai đề nghị các cấp ủy, tổ chức Đảng thường xuyên kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện Nghị quyết; không để xảy ra tình trạng “đầu voi đuôi chuột”, hình thức, đối phó, làm sao cho Nghị quyết phải đi vào cuộc sống một cách thực chất nhất.
“Nhiệm vụ của năm 2024 được triển khai trong bối cảnh tình hình trong nước và thế giới bên cạnh thuận lợi vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, một số phát sinh có thể nằm ngoài dự kiến của chúng ta. Một số địa phương phải tăng tốc, có giải pháp đột phá mới có thể đạt được mục tiêu chỉ tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ đòi hỏi phải chủ động nắm sát tình hình kịp thời có giải pháp phù hợp, không để bị động bất ngờ trong mọi tình huống", Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai nhấn mạnh.
Có thể bạn quan tâm
Đường lối đối ngoại Đại hội Đảng XIII kế thừa, phát triển trong thời kỳ đổi mới
01:00, 01/12/2021
Đại hội Đảng XIII và nền tảng khát vọng 100 năm
05:00, 03/02/2021
ĐẠI HỘI ĐẢNG XIII: Đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới!
05:00, 01/01/2021