Triển khai Nghị định 35/2022/NĐ-CP về quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế

NGÂN LAN - DIỄM HẰNG - DƯƠNG HIỀN - TUẤN NGỌC 26/08/2022 14:00

Diễn đàn nằm trong chuỗi sự kiện “Xây tổ đón đại bàng” do Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức, dưới sự chỉ đạo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).

16h10:

Ông Nguyễn Đình Nam – CEO IPA Việt Nam, cho biết có mấy điểm liên quan đến xu hướng đầu tư đã nói đến ở Nghị định 35.

Thời gian làm thủ tục rút ngắn đi, ảnh hưởng đến 2 việc trong xu hướng đầu tư. Đó là, thời gian đầu tư cơ sở hạ tầng cũng như ra quỹ đất bàn giao cho nhà đầu tư sẽ ngắn hơn, tiết kiệm được thời gian và sản phẩm đầu ra sẽ ngắn hơn. Liên quan đến chi phí, rút ngắn thời gian bao giờ cũng giảm được chi phí, chi phí đầu tư và chi phí lãi vay, sẽ ảnh hưởng đến giá, giá thuê sẽ giảm đi so với việc thủ tục kéo dài. Các tiện ích trong khu công nghiệp cũng được nâng lên khá nhiều trong việc cho phép đầu tư các cơ sở hạ tầng,tiện ích cho công nhân, như: nhà ở, dịch vụ trong khu công nghiệp… quy định được nhiều và rõ ràng hơn sẽ tạo thuận lợi cho các đơn vị hạ tầng trong xu hướng đầu tư và thu hút đầu tư các KCN.

Ông Nguyễn Đình Nam – CEO AP Việt Nam

Ông Nguyễn Đình Nam – CEO IPA Việt Nam

Về xúc tiến đầu tư chung, khuôn khổ pháp lý, có 2 điểm: về quốc gia đã có cơ sở pháp lý phục vụ công tác xúc tiến đầu tư đó là quy chế xúc tiến đầu tư của Bộ KHĐT đã ban hành, luật đầu tư cũng có hẳn 1 điều quy định riêng về công tác xúc tiến đầu tư, đã có cả 1 danh mục kêu gọi xúc tiến đầu tư.

Đa phần các dự án cả trong nước và nước ngoài đều thu hút vào KCN, KKT là nhiều. Tại sao Nghị định 35 không bao hàm câu chuyện quy định liên quan đến xúc tiến đầu tư vào KCN như thế nào để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, để có định hướng ban đầu, hình thành KCN của mình theo đúng tiêu chí để thu hút tốt hơn.

Có một vài điểm liên quan đến đầu tư hạ tầng (phần cứng của thu hút đầu tư), ở đây là sân bay, cảng biển, cao tốc… hay các điều kiện và logistics, nguồn nhân lực… các điều kiện hỗ trợ trong xúc tiến đầu tư, trong Nghị định đã quy định nhưng chưa chia tiết.

Ví dụ, quy hoạch 1 KCN hoặc xây dựng mới 1 KCN phải đáp ứng những điều kiện gì, hạ tầng, giao thông,… thì mới đưa ra câu chuyện hình thành KCN đấy. Chứ giờ cứ xin, xin xong rồi nhưng không kết nối được, 5 năm, 7 năm mới bắt đầu kết nối được hạ tầng, kết nối được đầu tư, như vậy là muộn, nhà đầu tư sẽ thất bại trong câu chuyện bán hàng. Đầu tư thì tốt nhưng bán hàng không tốt chắc chắn sẽ giảm lợi nhuận của nhà đầu tư.

Trong Nghị định có nói đến dữ liệu các KCN, KKT (có hẳn 1 chương riêng, chương V) nhưng câu chuyện của chúng ta là hệ thống dữ liệu đó đang nằm ở đâu, hệ thống quản lý nhà nước cũng chưa có. Tất cả những thông tin KCN, KKT chưa đầy đủ, có thể là giai đoạn sơ khai, đang xin chủ trương, đang làm thủ tục pháp lý chưng có thông tin, nhưng đó là câu chuyện quản lý Nhà nước, còn xúc tiến đầu tư thì không cần phải che dấu, cần minh bạch. Tất cả những KCN sẵn sàng để xúc tiến đầu tư, có thể bàn giao đất đều đẩy lên cơ sở xúc tiến đầu tư được, khi đó nhà đầu tư quốc tế họ vào cơ sở dữ liệu quốc gia, họ mới tìm kiếm được vị trí phù hợp. Sẽ có 2 phần, quản lý Nhà nước có thể ẩn đi để phục vụ công tác quản lý, phần của xúc tiến đầu tư phải nổi lên. Tất cả các KCN, CCN phải nổi lên trên hệ thống đó, hiện nay tôi chưa thấy điều đó.

Về hạ tầng mềm xúc tiến đầu tư, cái quan trọng cốt lõi của các KCN là đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư và nhân viên xúc tiến đầu tư. Nghị định này cũng lên đưa vào quy định hỗ trợ của Chính phủ, đào tạo. Hiện tại, các KCN đều hình thành đã lâu nên đều đào tạo tự phát, làm dần thành quen. Hiện tại, ở quốc gia và địa phương đều có các chương trình tập huấn đào tạo kỹ năng xúc tiến đầu tư nhưng chỉ cho các đơn vị quản lý nhà nước, ở đây là các Sở KHĐT, các BQL các KCN các tỉnh. Vì vậy, Nghị định này nên đưa vào câu chuyện các đơn vị phát triển KCN tư nhân có hỗ trợ nào từ Chính phủ trong đào tạo tập huấn xúc tiến đầu tư.

----------------------------------------------------------------------------

16h04:

Nhà báo Phạm Ngọc Tuấn, Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp cảm ơn bà Tô Loan với những trao đổi, những cách tiếp cận cho hoạt động thu hút các nhà đầu tư nhìn từ Nghị định 35.

Nhà báo Phạm Ngọc Tuấn, Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp

Nhà báo Phạm Ngọc Tuấn, Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp

Chúng tôi thấy rằng, bên cạnh những nội dung chúng tôi đã tổng hợp được, bên cạnh những yếu tố tích cực, những yếu tố rất mới, thậm chí có những nội dung chúng ta cảm nhận rằng các ban soạn thảo đã đi trước 1 bước đón đầu những vấn đề sửa đổi một số luật chuyên ngành liên quan, đây là những bước tiến bộ.

Bên cạnh đó, chắc chắn những quy định mới không thể bao quát hết được tất cả hoặc điều chỉnh được tất cả mọi yếu tố mới phát sinh trong thực tiễn. Cho nên chúng ta sẽ cùng nhau tiếp tục tập hợp lắng nghe và cam kết với các vị như phát biểu của Phó Chủ tịch VCCI ban đầu, tất cả những nội dung quý vị góp ý chúng tôi sẽ tiếp thu 1 cách đầy đủ, rõ ràng và sẽ có văn bản trình các cơ quan trong thời gian sớm nhất để đón đầu  các văn bản, nội dung hướng dẫn thực hiện Nghị định 35 từ phía các cơ quan chức năng.

----------------------------------------------------------------------------

15h57:

Bà Trần Tố Loan, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Sao Đỏ cho biết, Nghị định 35 đã có rất nhiều thay đổi tiến bộ so với Nghị định 82 mà tuỳ vào đặc điểm của KCN. Ví dụ như quy mô, vị trí hay giai đoạn đầu tư thì sẽ đều thấy được những điểm tối ưu khác. Tuy nhiên, với KCN Nam Đình Vũ, chúng tôi thấy có 2 điểm chính hiện nay đang có tác động trực tiếp đến KCN.

Bà Trần Tố Loan, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Sao Đỏ

Bà Trần Tố Loan, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Sao Đỏ.

Đầu tiên, chính là nhà ở công nhân. Nhà ở công nhân đã được PGS.TS Lưu Đức Hải có nhắc tới trong phần chia sẻ trước. Cụ thể trong Nghị định 82 trước đây, người lao động không được ở tại trong KCN mà chỉ có lao động là chuyên gia nước ngoài được ở lại với điều kiện được sự đồng ý của UBND cấp tỉnh. Tuy nhiên, ở trong Nghị định 35 lần này thì tất cả cơ sở lưu trú để cho người lao động ở lại trong KCN thì lại được khuyến khích đầu tư.

Cụ thể là một số KCN mới và quy hoạch của cấp tỉnh cũng đang yêu cầu dành tối thiểu 2% diện tích để xây dựng cho nhà ở công nhân. Đây là một sự thay đổi rất lớn. Ví dụ như KCN Nam Đình Vũ chúng tôi toạ lạc tại KKT Đình Vũ - Cát Hải, tại vị trí tập trung rất nhiều cảng biển, rất nhiều KCN với tổng diện tích trên 5000ha, với tổng số lao động dự kiến tối thiểu là 500.000 lao động. Nhưng toàn bộ khu vực này hiện nay được TP Hải Phòng quy hoạch khoảng 35ha đất dành cho nhà ở công nhân. Và quy hoạch này chắc chắn hoàn toàn không thể đảm bảo được cái nhu cầu hiện tại, chưa kể là những nhu cầu tiếp theo khi mà thu hút lao động, thu hút dự án mới.

Trước đây, để việc thay đổi KCN, để đưa được nhà ở công nhân về KCN thì rất là phức tạp. Cụ thể, chúng tôi đã phải đưa toàn bộ diện tích dành cho nhà ở công nhân phải ra khỏi KCN bằng thủ tục xin chủ trương điều chỉnh toàn bộ quy mô của KCN, điều chỉnh lại giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, điều chỉnh lại quyết định giao đất và thậm chí là cả sổ đỏ, thì cái quy định, quy trình này nó tốn rất nhiều thời gian, khó khăn.

Vì vậy, mặc dù là có nhiều nhu cầu nhưng chưa thể thực hiện được. Tuy nhiên, đến Nghị định 35 hiện nay thì ngay lập tức có một quy định là có thể xây dựng các cơ sở lưu trú cho người lao động trên đất hành chính dịch vụ. Nghĩa là nếu một KCN đã có quy hoạch một phần đất dành cho dịch vụ thì không phải xin cấp phép, thay đổi bất cứ điều gì cả và có thể ngay lập tức xây dựng các cơ sở lưu trú dành cho người lao động luôn. Và ở trong quy định này nó cũng thể hiện một điểm rất tiến bộ của Nghị định 35, đó là phân quyền mạnh mẽ hơn và giao nhiều trách nhiệm hơn cho UBND cấp tỉnh. Nghĩa là có những thay đổi, điều chỉnh mà ở mức độ vừa phải, thậm chí là quy mô của KCN có thể phê duyệt ngay ở cấp tỉnh mà thay vì trước đây chúng ta phải lên tận trung ương, nói thế để thấy rằng Nghị định 35 đang hỗ trợ tích cực cho hoạt động triển khai của KCN.

Ngoài ra thì có một đặc điểm nữa mà KCN Nam Đình Vũ cũng thấy là có thể hỗ trợ trong quá trình thu hút đầu tư đó là việc phân loại các KCN. Nghĩa là hiện nay, trong Nghị định 35 đã phân loại rất cụ thể các loại hình KCN, như: KCN chuyên sâu, KCN hỗ trợ, KCN công nghệ cao hay dịch vụ, sinh thái.

Việc phân chia KCN một cách cụ thể như thế, trước đây đã có hành lang pháp lý rồi nhưng mà không có hướng dẫn cụ thể, nghĩa là chúng ta sẽ phải tiếp tục bổ sung thêm để hoàn thiện hơn. Nhưng mà ít nhất hiện nay, chúng ta đã có những hướng dẫn rất chi tiết như: quy trình đầu tư ban đầu như thế nào hay cơ sở hạ tầng phải đáp ứng những điều kiện gì thì mới đạt tiêu chí của những KCN đó; thậm chí về quy mô, dự án thu hút đầu tư, loại hình thu hút đầu tư vào mỗi KCN. Đây đều là những hướng dẫn rất chi tiết và đối với chủ đầu tư KCN mới thì sẽ căn cứ vào đó để xác định được quy mô và chất lượng đầu tư; thậm chí định hướng ngay từ ban đầu được phân khúc khách hàng của mình để có thể thu hút tốt nhất và sau đó mình sẽ quy hoạch, thiết kế để xây dựng KCN sao cho đồng bộ để đạt được mục tiêu của mình.

Còn đối với nhà đầu tư thứ cấp, đặc biệt là nhà đầu tư FDI khi mà lần đầu tiên bước chân vào Việt Nam thì họ cũng có những cơ sở đáng tin cậy để quyết định lựa chọn điểm đầu tư. Trước đây, họ chỉ quan tâm đến vấn đề như: vị trí địa lý, chi phí nhưng bây giờ nhà đầu tư nước ngoài họ quan tâm đến nhiều yếu tố hơn như:môi trường, hình ảnh KCN và nhiều yếu tố khác mà với sự phân loại như thế này họ có thể lựa chọn căn cứ vào loại hình doanh nghiệp, sản phẩm của họ hay hình ảnh doanh nghiệp họ hướng tới thì họ có thể chọn lựa những KCN phù hợp hơn, một cách chính xác hơn, thay vì trước đây chỉ thông qua sự giới thiệu của KCN mà không hề có bất cứ hướng dẫn, tài liệu hay là những cơ sở gì để xác nhận việc đó cả.

Tôi thấy đây là một điểm rất tiến bộ. Tuy nhiên, thực tế với cá nhân tôi trong quá trình hoạt động KCN thì thấy rằng, hiện nay tất cả các KCN chuyên ngành, hỗ trợ hay thậm chí cả KCN công nghệ cao  thì đều có thể bao gồm các yếu tố KCN sinh thái hay KCN đô thị - dịch vụ bởi vì tất cả đều vì mục tiêu phát triển KCN xanh, sạch như bà Đặng Thị Kim Chi vừa chia sẻ. Cụ thể thì, chúng tôi có những quy hoạch về công trình bảo vệ môi trường cần phải bài bản hơn, cần phải đầu tư đồng bộ hay diện tích để cho cây xanh, tiến tới bản thân KCN và nhà đầu tư thứ cấp phải sử dụng năng lượng một cách xanh, sạch hơn hay hệ thống cộng sinh KCN, đầu ra của sản phẩm của công ty nọ sẽ là sản phẩm đầu vào của công ty kia, tiết kiệm không chỉ là chi phí logsitics tài nguyên mà nó còn giảm thiểu rác thải ra môi trường, giảm thải khí thải.

Tôi cho rằng, một KCN có thể bao gồm những yếu tố của KCN phân khu KCN khác nhau và nó đều hỗ trợ cho các nhà đầu tư thứ cấp. Trong tương lai, chúng tôi cũng mong nghị định có sự thay đổi để phù hợp hơn với tình hình thực tế của KCN cũng như là nhu cầu của nhà đầu tư . Nhưng ít nhất tại thời điểm này, tôi thấy Nghị định 35 rất là tiến bộ so với Nghị định 82 và có rất nhiều việc có thể bắt tay vào làm luôn thay vì phải chờ đợi như trước đây.

----------------------------------------------------------------------------

15h54:

Nhà báo Phạm Ngọc Tuấn, Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp cho biết, vừa rồi là trao đổi rất thực tiễn, mang tính học thuật của PGS.TS - NGND Đặng Thị Kim Chi, Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam.

Ở góc độ tiếp cận của Nghị định 35 chúng ta thấy, đây không chỉ là những quy định về mặt quản lý mà nó còn tạo ra những cơ hội cho một ngành kinh tế mới là ngành kinh tế xanh và nó cũng là cơ hội cho các chủ đầu tư, doanh nghiệp đầu tư vào các KCN này chúng ta nắm bắt được cơ hội đó để hoà nhập vào xu thế phát triển chung. Và tạo dựng cho mình một năng lực cạnh tranh, một năng lực cạnh tranh mới trong quá trình phát triển mới của nền kinh tế mới.

"Khi mà chúng tôi triển khai hội thảo về năng lượng tái tạo, là điện lắp mái cho các KCN TP Hồ Chí Minh thì doanh nghiệp họ đặc biệt quan tâm. Đây không phải vấn đề về tiết kiệm chi phí mà nó để đóng góp vào chứng chỉ xanh cho sản phẩm của doanh nghiệp để tham gia vào các thị trường quốc tế. Cho nên thực sự xác định đây là một cơ hội lớn hơn là một cái trách nhiệm. Cũng mong là Phó Giáo sư có cách trao đổi chuyên đề sâu hơn đối với cộng đồng doanh nghiệp, để chúng ta có thể triển khai mạnh mẽ hơn vấn đề chuyển đổi này.

Và chúng ta sẽ nghe ý kiến của một nhà đầu tư phát triển KCN có quy mô tương đối lớn tại Hải Phòng. Đối với nhà đầu tư thì chắc chắn chúng ta sẽ quan tâm đến một khía cạnh, Nghị định 35 này mà trong phần mở đầu Luật sư Trần Đại Nghĩa đã có đề cập sơ bộ. Sau đây, bà Trần Thị Tố Loan - Phó Tổng giám đốc KCN Nam Đình Vũ sẽ có trao đổi ở góc nhìn của nhà đầu tư là Nghị định 35 này có thể tạo ra gì mới trong vấn đề thu hút đầu tư để chúng ta có thể tận dụng cơ hội này trong vấn đề phát triển KCN của mình". - ông Phạm Ngọc Tuấn nói. 

----------------------------------------------------------------------------

15h40:

Bà Đặng Thị Kim Chi, Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ môi trường, Đại học Bách Khoa Hà Nội cho biết, chúng ta thừa nhận rằng, phát triển khu công nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình thu hút đầu tư, công nghệ, nâng cao trình độ quản lý, tạo công ăn việc làm, nhất là ở Việt Nam - một nước có trình độ sản xuất không cao, cơ sở hạ tầng không đồng bộ. Vì vậy, việc tập trung phát triển khu công nghiệp là một điều cần thiết, giúp đất nước phát triển công nghiệp, kinh tế một cách đúng đắn.

Bà Đặng Thị Kim Chi, Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ môi trường, Đại học Bách Khoa Hà Nội

Bà Đặng Thị Kim Chi, Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ môi trường, Đại học Bách Khoa Hà Nội.

Tuy nhiên, việc tập trung các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế hiện nay tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và là nguồn phát sinh ra khối lượng lớn chất thải, chất ô nhiễm, gây tác động tới môi trường, lan truyền đến khu vực lân cận và tác động xấu đến hệ sinh thái chung của khu vực, cũng như sức khỏe con người.

Do đó, một trong những yêu cầu đặt ra là phải kiểm soát được chặt chẽ các hoạt động của khu công nghiệp, thông qua việc kiểm soát nguồn thải, các hoạt động sản xuất, cách vận hành hạ tầng kĩ thuật, tăng cường quản trị môi trường, hướng tới phát triển khu công nghiệp xanh, bền vững.

Bà Nguyễn Thị Kim Chi phân tích, khu công nghiệp xanh là khu công nghiệp được hình thành với mục tiêu thân thiện môi trường, giảm chất thải ô nhiễm, chia sẻ hiệu quả các tài nguyên thiên nhiên, vật liệu, nước, năng lượng, cơ sở hạ tầng, giúp chúng ta phát triển bền vững đất nước.

Khu công nghiệp xanh sẽ giúp chúng ta tiết kiệm được chi phí, thân thiện với môi trường, tăng cường diện tích cây xanh, sử dụng được nguyên liệu tái chế và chú trọng về việc sử dụng năng lượng có sẵn như năng lượng mặt trời, nước, gió,... Cùng với đó có thể khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên, hạn chế sử dụng hóa chất độc hại trong đó có phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất nông nghiệp trong quá trình làm việc. Đồng thời sử dụng công nghệ mới làm tăng khả năng thu gom xử lý chất thải, qua đó có thể giảm thiểu được lượng chất thải phát sinh ra môi trường.

Theo bà Kim Chi, một vấn đề đặt ra hiện nay đó là, khu công nghiệp xanh có đáp ứng nhu cầu nhà nước hiện nay hay không? Theo vị chuyên gia, từ năm 2014, Chính phủ đã đưa ra Đề án triển khai sáng kiến khu công nghiệp xanh, sinh thái, hướng tới mô hình khu công nghiệp bền vững tại Việt Nam.

Khi Luật môi trường Việt Nam ra đời, nhất là Luật Môi trường năm 2020, phải có biện pháp bảo vệ môi trường, khu vực kinh doanh tập trung và Nghị định 08/2022 cũng đưa ra điều khoản khuyến khích tái sử dụng chất thải, áp dụng công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường, phát triển sản xuất kinh doanh tập trung theo mô hình khu công nghiệp sinh thái.

Sau này, quy định còn đưa ra khuyến nghị các loại chất thải, nước thải, khuyến khích sử dụng nước thải đạt tiêu chuẩn quay lại phục vụ cho các mục tiêu cộng sinh trong khu công nghiệp và khuyến khích xử lý các chất thải rắn, chất thải rắn công nghiệp, trở thành nguyên liệu cho quá trình nhà sản xuất tiếp theo, mặc dù nó là phế liệu của công nghệ.

Ngay trong Nghị định 35 mới nhất, chúng ta đã thấy nó góp phần hoàn thiện cơ chế chính sách tại khu công nghiệp sinh thái, tạo niềm tin cho nhà đầu tư và người dân vào các mô hình hoạt động khu công nghiệp xanh, hướng đến phát triển bền vững. Đặc biệt, Mục 4 Chương 4 của Nghị định này nêu rất rõ: hỗ trợ hợp tác phát triển khu công nghiệp sinh thái. Đưa ra tiêu chí khu công nghiệp sinh thái đối với nhà đầu tư, doanh nghiệp xây dựng khu công nghiệp sinh thái ưu đãi đối với khu công nghiệp sinh thái của doanh nghiệp và tới đây sẽ có chứng nhận khu công nghiệp sinh thái hay không.

Về mặt luật pháp, Nhà nước đã quan tâm rất nhiều và đưa ra chính sách như vậy, còn thực tế hiện nay, phát triển khu công nghiệp như thế nào vẫn còn nhiều bất cập. Ví dụ, trong các hoạt động bảo vệ môi trường, tính đồng bộ, tính gắn kết của khu công nghiệp với các quy hoạch hạ tầng xã hội, nguồn lực xây dựng đất và đô thị chưa cao.

Bên cạnh đó là thiếu hướng bền vững, hài hòa giữa công nghiệp đô thị dịch vụ để tạo nên liên kết chuỗi giá trị giữa các khu công nghiệp trong và ngoài. Đặc biệt là hạ tầng kĩ thuật bảo vệ môi trường của khu công nghiệp tại một số địa phương hiện nay rất không đồng bộ.

Như vậy, trong xu hướng phát triển hiện nay về các khu công nghiệp, với tốc độ nhanh cũng gây ra thách thức với môi trường. Vì vậy cần phải có xu hướng tiến tới khu công nghiệp xanh bền vững, thông qua những việc như nâng cao hiệu quả trong sản xuất, tiết kiệm tài nguyên, giảm thiểu ô nhiễm về chất thải, khuyến khích sử dụng công nghệ sạch và phương pháp sản xuất sạch hơn, thân thiện với môi trường, hình thành cộng đồng doanh nghiệp trong một khu công nghiệp có sức cạnh tranh trên thị trường phát triển bền vững.

Theo bà Kim Chi, các tiêu chí của một khu công nghiệp xanh có thể tập trung vào một vài ý sau:

Thứ nhất, là cam kết xanh, một khu công nghiệp thì doanh nghiệp phải có chính sách cam kết giảm thiểu tác động đến môi trường, truyền tải thông điệp đó một cách hiệu quả đến các cấp khác nhau, để tối ưu hóa nguyên vật liệu, chất thải, tối ưu hóa năng lượng và các quá trình vốn, nhân lực, tài chính,...

Thứ hai, là hoạt động xanh. Các khu công việc phải thực hiện các chương trình giảm thiểu liên tục tác động môi trường thông qua các chính sách và cam kết từ các cấp độ, cập nhật thay đổi công nghệ tiết kiệm năng lượng, sử dụng năng lượng tái tạo thay thế năng lượng hóa thạch, thực hành tái chế, tái sử dụng giảm thiểu chất thải ra môi trường.

Hiện nay đang có “mốt” kêu gọi năng lượng tái tạo, nhưng năng lượng tái tạo cũng có mặt trái mà chúng ta cần quan tâmm để có quy hoạch phát triển phù hợp với đặc thù của địa phương, cũng như điều kiện phát triển chung của đất nước.

Thứ ba, phải có một hệ thống giám sát đánh giá cải tiến liên tục các hệ thống quản lý môi trường, không vi phạm quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường và văn hóa xanh. Khu công nghiệp phải chứng minh trách nhiệm của mọi người về vấn đề môi trường, xã hội, coi như là một phần không thể thiếu trong văn hóa của tổ chức, diện tích cây xanh, nhà ở công nhân, khu vui chơi giải trí cộng đồng, hoạt động an sinh và trách nhiệm xã hội,...

Thứ tư, về mạng lưới xanh. Khu công nghiệp phải kết hợp các khu công nghiệp của mình cộng sinh với khu công nghiệp xanh. Khi chúng ta đưa ra các khu công nghiệp chuyên biệt, nhưng không thể quên chất thải từ các khu công nghiệp này có thể chuyển thành nguyên liệu cho các sản phẩm tái chế khác, tốt hơn là tập hợp toàn bộ chất thải đưa đi về một nơi xa khác để làm công tác xử lý.

Để xây dựng và phát triển công nghiệp xanh, khu công nghiệp xanh bền vững ở Việt Nam, trước hết phải rà soát lại và lựa chọn những khu công nghiệp có tiềm năng, khuyến khích chuyển đổi khu công nghiệp hiện hữu đang có với 290 khu công nghiệp đang hoạt động trong số 377 khu công nghiệp đã đăng ký.

Để tiếp tục phát triển khu công nghiệp xanh, bền vững, phải có khả năng đồng bộ kết cấu hạ tầng kĩ thuật, hạ tầng xã hội, có sự tương thích các loại hình công nghiệp trong một khu công nghiệp; nghĩa là nguyên liệu phế liệu của ngành, của nhà máy này có thể là nguyên liệu đầu vào của nhà máy khác, để cuối cùng tổng lượng chất thải đưa ra khu công nghiệp là thấp nhất.

----------------------------------------------------------------------------

 15h20:

Trao đổi về việc tháo gỡ nút thắt về xây dựng nhà ở công nhân trong khu công nghiệp, PGS.TS. Lưu Đức Hải, Viện trưởng Viện nghiên cứu Đô thị và Phát triển Hạ tầng cho biết, Nghị định 35 có thể coi là Nghị định điều chỉnh lần thứ tư về vấn đề nhà ở công nhân trong KCN.

PGS.TS. Lưu Đức Hải, Viện trưởng Viện nghiên cứu Đô thị và Phát triển Hạ tầng

PGS.TS. Lưu Đức Hải, Viện trưởng Viện nghiên cứu Đô thị và Phát triển Hạ tầng

“Việc điều chỉnh Nghị định qua các thời kỳ cho thấy mỗi lần chỉnh sửa là 1 lần tiến bộ, có nhiều cơ chế chính sách thuận lợi hơn cho quá trình công nghiệp hoá. Có nhiều đổi mới hơn trong Nghị định 35, trong đó có 4 điểm mới quan trọng nói về nút thắt nhà ở công nhân”, ông Hải cho biết.

Cụ thể, khoản 4 mục D có nói tới “Có quỹ đất thiểu bằng 2% tổng diện tích khu công nghiệp để qu hoạch xây dựng nhà ở công trình dịch vụ tiện ích cho người lao động làm việc tại các KCN”.

“Như vậy chính phủ đã chú ý tới việc một địa phương khi quy hoạch KCN cần quy hoạch 2% để xây dựng nhà ở cho người lao động, đây là điểm gỡ nút thắt đầu tiên, tạo tiền đề cho các địa phương, chính quyền 63 tỉnh thành phố đồng hành cùng doanh nghiệp tạo quỹ đất cho người công nhân có nhà ở”, ông Hải nhận định.

Bên cạnh đó, mục 7 điều 9 về điều kiện đầu tư hạ tầng KCN quy định “có quy hoạch khu nhà ở và các công trình dịch vụ tiện ích công cộng cho người lao động hoặc các KCN được cơ quan nhà nước quy định về nhà ở”. Nhớ lại thời kỳ cách đây 30 năm thì trong KCN không quy định phải có nhà ở, cũng không có văn bản nào quy định KCN không có nhà ở thì ai lo nhà ở cho người lao động. Việc giải quyết nhà ở khu đó chỉ phục vụ theo nhu cầu lao động mà không có quy hoạch lâu dài cho vấn đề nhà ở.

“Đây là điều vô lý bởi chỉ quy định đất xây dựng KCN mà không quy định nơi ở cho con người lao động trong KCN. Mà trong lịch sử, về nguyên lý mọi quy hoạch phải bắt đầu từ con người”, ông Hải nói.

Điểm khác cũng là một tiến bộ quan trọng là mục 2 và 3 điều 33 quy định “phát triển KCN đô thị dịch vụ được đầu tư đồng bộ bao gồm nhà ở, công trình giáo dục đào tạo, công trình nghiên cứu, y tế, thể thao, văn hoá…”. Dù Nghị định 82 chúng ta đã nhắc tới loại hình KCN đô thị dịch vụ gắn liền 3 yếu tố, nhưng khi giải quyết vấn đề đó Chính phủ đã nhận được phản hồi sau đó sử theo hướng: Người công nhân không chỉ cần nhà ở mà còn cần các tiện ích trường học, bệnh viện…

“Chúng ta đã quan tâm tốt hơn đến vấn đề hạ tầng xã hội của người lao động. Đây là tiến bộ quan trọng nhấn mạnh câu chuyện đồng bộ hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội”, ông Hải khẳng định. Đồng thời cho biết đây là vĩ mô, vi mô phải cụ thể hơn hạ tầng nào được coi là đồng bộ và lộ trình cụ thể hơn ở các văn bản tiếp theo.

Viện trưởng Viện nghiên cứu Đô thị và Phát triển Hạ tầng cũng cho biết, tại Nghị định 35, điều 56 quy định cụ thể quyền hạn trách nhiệm của quản lý nhà nước thuộc về Bộ xây dựng. Trước đây bộ xây dựng đứng ngoài các văn bản quy định về nhà ở ở các KCN, khu kinh tế.

“Như vậy trách nhiệm đã được giao đến Bộ Xây dựng. Tuy nhiên, Nghị định 35 chưa giải quyết được các vấn đề về nhà ở cho người lao động tại KCN, khu kinh tế, do đó Chính phủ và các cơ quan liên quan cần tiếp tục nhiều vấn đề”, ông Hải nói.

Cụ thể, đại dịch Covid-19, chúng ta đã chứng kiến cảnh đoàn người lao động từ nam trở về bắc, họ đã ko coi nơi họ làm việc là quê hương thứ 2, họ phải quay về quê hương cũ. Vì sao có câu chuyện này? Ông Hải lý giải: “Vì chúng ta chưa làm tốt câu chuyện dịch cư, không chỉ lo nhà ở cho người công nhân mà phải nghĩ tới nhà ở cho người nhà của công nhân, để câu chuyện dịch cư tạm thời thành dịch cư cố định”.

Chỉ 10% công nhân được chính quyền đô thị quản lý và có thể sau này trở thành người dân đô thị. Phần còn lại là ở thôn xã huyện ở vùng nông nghiệp, họ chỉ là người dịch cư, là tạm trú vậy không chỉ là câu chuyện quy hoạch tại văn bản này mà phải để người lao động định cư bền vững, có vậy mới có sự phát triển bền vững.

Trở lại mô hình đô thị công nghiệp tại những thế kỷ trước trên toàn thế giới, ông Hải cho biết tại Việt Nam đã học hỏi và có hàng loạt quy hoạch đô thị công nghiệp vào thập niên 50, 60 của thế kỷ trước. Nhờ đó, chúng ta có hàng loạt đô thị công nghiệp ra đời như TP Việt Trì từ KCN Việt Trì, có TP Thái Nguyên là khu đô thị gang thép từ KCN gang thép Thái Nguyên…

“Cách quy hoạch ngày đó là quy hoạch cả khu công nghiệp, ngày này chúng ta quy hoạch chi tiết hơn, giải quyết những vấn đề của quá trình trước, nhưng cần nhìn tiếp tương lai chúng ta đang có 330 KCN có hàng triệu người lao động”, ông Hải cho biết.

Trong khi đó, Luật quy định khu đô thị có 4000 người, nhưng các KCN nói trên không khu nào dưới 4000 người. Vậy khi nào nó là đô thị công nghiệp? “Bài toán tương lai là các bộ ngành phải nhìn nhận câu chuyện đô thị công nghiệp và quy hoạch đô thị công nghiệp trong tương lai gỉai quyết vấn đề đồng bộ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá thành công”, ông Lưu Đức Hải đặt vấn đề.

----------------------------------------------------------------------------

15h15:

Trao đổi tại Diễn đàn, ông Trần Đình Hạnh, Phó Cục trưởng Cục knh tế và phát triển Quỹ đất, Tổng cục quản lý Đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, Nghị định 35 được ban hành có nhiều đổi mới, trong đó KCN được cải thiện chủ trương đầu tư, diện tích đầu tư và được mở rộng hoạt động đa lĩnh vực thương mại dịch vụ… Thậm chí trong một số trường hợp, một số KCN được chuyển sang thành khu đô thị thương mại dịch vụ.

ông Trần Đình Hạnh, Phó Cục trưởng Cục knh tế và phát triển Quỹ đất, Tổng cục quản lý Đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường

Ông Trần Đình Hạnh, Phó Cục trưởng Cục knh tế và phát triển Quỹ đất, Tổng cục quản lý Đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường/

Một số quy định mở hơn về cơ chế, hướng dẫn, trách nhiệm của BQL các khu kinh tế địa phương cũng như quyền của các chủ đầu tư khai thác hạ tầng các KCN cũng đã mở hơn.

Hiện nay, tất cả hoạt động quản lý, kinh doanh KCN, liên quan đến nhiều hệ thống pháp luật chi phối bắt buộc phải tuân theo. Trước hết, ông Hạnh chỉ ra những hệ thống pháp luật liên quan bao gồm về đất đai, đầu tư; hệ thống pháp luật về kế hoạch đầu tư; đầu tư xây dựng; hay hệ thống nông nghiệp, phát triển nông thôn (ngành nông nghiệp thủy sản, phát triển bảo vệ rừng); về thương mại, kinh doanh chuyển giao...

Riêng về khía cạnh hệ thống pháp luật đất đai, ông Hạnh cho rằng, đang có nhiều quy định về giao đất cho thuê đất; nghĩa vụ tài chính đất đai khi được giao và cho thuê; phân cấp phân quyền trong quản lý sử dụng đất. Với KCN, KKT được phân xuống cho một cấp trung gian, ngoài tỉnh là Ban Quản lý KCN, trong đó được một số quyền phân cấp trong quyết định giá cho thuê và xét duyệt đơn vị.

Theo ông Hạnh, để thực hiện hiệu quả, cũng như thuận lợi Nghị định 35, hầu hết hệ thống pháp luật, hay các nghị định sẽ phải sửa đổi bổ sung nhiều quy định. Cụ thể, riêng lĩnh vực đất đai, về việc giao đất và cho thuê đất, trước đây chỉ giao cho thuê để cho doanh nghiệp đầu tư cơ sở hạ tầng kinh doanh. Nhưng khi trong KCN có đất ở và đất thương mại dịch vụ, việc thực hiện sẽ phải thay đổi. 

Hay về nghĩa vụ tài chính đất đai, với đất giao, sử dụng và cho thuê với mục đích khác nhau sẽ tính giá thu tiền sử dụng đất theo các mục đích khác nhau. Trong trường hợp 1 khu đất sử dụng đa mục đích thì sẽ thu tiền sử dụng đất theo mục đích có giá cao nhất. Trước đây, KCN chỉ giao cho chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN chỉ tính giá đất theo giá đất sản xuất kinh doanh. 

Tuy nhiên, với KCN đa mục đích sẽ gặp khó trong việc thu giá đất theo tỷ trọng diện tích đất sử dụng. Thông thường, giá đất sản xuất kinh doanh bằng 60-70% giá đất ở tùy theo từng địa phương. Nhưng giá đất thương mại dịch vụ quy định từ 80% - 85% giá đất ở. Nếu KCN có làm dịch vụ, chưa nói đến đất ở, sẽ bị nâng tiền thuê giá đất. Điều này sẽ dẫn đến việc khi các chủ đầu tư cho thuê lại sẽ có biến động giá.

Tất cả những quản lý sử dụng đất, thực hiện nghĩa vụ tài chính sử dụng đất, khai thác trong khu kinh doanh… đều phải tuân thủ quy định của pháp luật chuyên ngành. 

Hiện nay, trong lĩnh vực thẩm quyền chuyển đổi đất lâm nghiệp, đất rừng (đặc dụng, phòng hộ..) sang mục đích khác để thực hiện dự án phải trình Chính phủ chấp thuận phê duyệt, sau đó UBND tỉnh mới được quyết định.

Đến nay, trong Luật Đất đai và theo Chỉ đạo Chính phủ sửa đổi phân cấp xuống UBND và HĐND các tỉnh phê duyệt để bảo đảm rút ngắn thủ tục chuyển đổi. Nhưng theo quy định đảm bảo an ninh lương thực của Quốc hội và Chính phủ, bất kể chuyển đổi đất lúa phải đảm bảo duy trì tổng diện tích bảo đảm an ninh lương thực. 

Tổng diện tích này trên toàn quốc sẽ chia ra các tỉnh với các mức khác nhau. Trong khi đó, trên thực tế tất cả các dự án KCN phần lớn ít khi sử dụng đất đô thị, đất khu dân cư mà chủ yếu sử dụng đất nông nghiệp, trong đó có đất rừng, đất lúa. Điều này sẽ gây khó cho các chủ đầu tư.

Rất nhiều KCN sinh thái, KCN xanh liên quan đến quy định miễn tiền sử dụng đất. Đối với một số quy định về miễn giảm tiền đất, nếu đối chiếu theo NĐ 35 sẽ có nhiều lĩnh vực được miễn giảm. Nhưng hiện nay trong Quy định của CP, NĐ 45-46 của Bộ Tài chính về thu tiền thuê đất cũng chưa có hướng dẫn.

Ông Hạnh cho biết, theo Quy định hiện tại tại Luật Đất đai 2013, với các dự án KCN thuộc cấp Chính phủ, Thủ tướng Chỉnh phủ quyết định chủ trương đầu tư hoặc quyết định đầu tư đều sẽ được quyết định thu hồi đất. Hình thức giao cho chủ đầu tư nào sẽ có 3 hình thức: Được Thủ tướng quyết định chủ trương đầu tư, doanh nghiệp có tên sẽ được thực hiện thu hồi đất, các trường hợp khác phải áp dụng hình thức đấu thầu dự án có sử dụng đất. Đất đã được giải phóng mặt bằng sẽ tiến hành đấu giá để lựa chọn chủ đầu tư thực hiện dự án. 

Về bồi thường, ông Hạnh trao đổi thêm, đã giao Ủy ban cấp tỉnh thực hiện. Trong thời gian qua, phần lớn các dự án đều gặp “nút thắt” tiến độ bồi thường giải phóng mặt bằng bị kéo dài, chậm trễ dẫn đến không có mặt bằng thực hiện với nhiều nguyên nhân khác nhau.

Hiện nay, Chính phủ, Quốc hội và Bộ TN&MT đã tiến hành thực hiện sửa đổi Luật Đất đai 2013. Tại dự thảo Nghị định, Chính phủ đã đưa vào nhiều quy định để tháo gỡ trong thời gian tới.

“Dự thảo Luật sửa đổi đã hoàn thiện để trình Chính phủ và trình sang Quốc hội theo Chương trình để UBTV Quốc hội cho ý kiến lần thứ nhất. Bộ Tài nguyên & Môi trường cũng đang hoàn thiện Nghị định để sửa đổi một số điều của các Nghị định trình Chính phủ ban hành trong năm nay để tháo gỡ vướng mắc về cơ chế tài chính, về tổ chức thực hiện trong giải phóng mặt bằng… nhằm bảo đảm tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án nói chung và dự án KCN nói riêng, tạo thuận lợi cho việc thực hiện theo Nghị định 35” – ông Hạnh thông tin.

----------------------------------------------------------------------------

15h05:

Nhà báo Phạm Ngọc Tuấn - Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp cho biết, như vậy, theo ông Vương trao đổi 5 nội dung bao gồm vấn đề phân kỳ trong đầu tư; diện tích đất lúa; quy trình chấp hành chủ trương đầu tư; khuyến khích FDI; quy hoạch logistic trong KCN và đặc biệt, hiện nay Nghị định 35 đang liên quan đến rất nhiều các luật khác nhau.

"Nếu không sớm có hướng dẫn sẽ xảy ra xung đột trong quá trình triển khai do cách hiểu, cách vận dụng không thống nhất và đồng bộ". - ông Tuấn nói.

các vị diễn giả tại Diễn đàn.

Các vị diễn giả tại Diễn đàn "Triển khai Nghị định 35/2022/NĐ-CP về quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế"

----------------------------------------------------------------------------

14h43:

Ông Trần Anh Vương - Tổng Giám đốc Western Pacific cho biết: Trong quá trình dự thảo Nghị định 35 này, chúng tôi có trao đổi, góp ý ở nhiều nơi, qua nhiều kênh. Mặc dù Nghị định 35 này là một trong những nghị định đã đưa ra được rất nhiều những tín hiệu tích cực trong công tác đầu tư hạ tầng KCN, tuy vậy, khi Nghị định 35 ban hành, chúng tôi thấy còn rất nhiều tồn tại.

Ông Trần Anh Vương - Tổng Giám đốc Western Pacific

Ông Trần Anh Vương - Tổng Giám đốc Western Pacific

Tôi xin đưa ra 3 ý kiến từ góc độ nhà đầu tư:

Thứ nhất, Nghị định 35 có quy định về vấn đề phân kỳ đầu tư, đây là một trong những vấn đề vướng mắc cho các nhà đầu tư.

Khoản 4 Điều 8 Nghị định 35 quy định rõ, không chỉ chủ đầu tư phân kỳ trong dự án của mình, mà phân kỳ đầu tư phải phân kỳ cả quá trình từ chủ trương đầu tư cho đến chấp thuận đầu tư cho đến phân kỳ đầu tư thật trên thực địa.

Làm một KCN 250ha, khi đi xin chủ trương đầu tư chúng ta sẽ phải tách đôi, làm 2 lần chủ trương đầu tư, 2 lần lựa chọn nhà đầu tư, 2 lần giải phóng mặt bằng… không khéo sẽ làm cho tính tích cực trở thành tiêu cực. Bởi nếu phân kỳ như vậy, tính khớp nối sẽ rất khó với ngay cả 1 chủ đầu tư. Nghị định còn quy định rõ, nếu phân kỳ lần 1, tỷ lệ lấp đầy chưa đạt 60% thì phân kỳ lần 2 sẽ là chủ đầu tư khác. Tôi mong muốn, hôm nay có đại diện của Bộ KHĐT sẽ tiếp thu ý kiến, có thể có những thông tư hướng dẫn cho phù hợp. Chứ nếu để như này, chúng tôi sẽ rất bối rối.

Thứ hai, cơ quan chấp thuận chủ trương đầu tư ở Nghị định này vẫn quy định là Thủ tướng Chính phủ, vì vậy cơ quan tiếp nhận đề xuất chủ trương đầu tư là Bộ KHĐT. Chúng tôi nghĩ đây là một quy định đúng. Nhưng ở đây còn một chút bất cập là, trước đây khi đi xin chủ trương đầu tư KCN, bao giờ doanh nghiệp cũng trình lên cấp tỉnh trước, xem tỷ lệ lấp đầy đã được 60% chưa, quy hoạch đất đai thế nào, đã có chưa. Hiện đã có luật quy hoạch nên quy hoạch đã có, kế hoạch sử dụng đất cũng đã cụ thể, bao nhiêu đất được sử dụng cho công nghiệp, sử dụng cho đất lúa đã được tỉnh quy hoạch. Nhưng khi chúng tôi giải trình hồ sơ lên Bộ KHĐT thì chắc chắn sau đó Bộ phải làm công văn hỏi các bộ và có hỏi về tỉnh. Khi hỏi về tỉnh, lúc đó mới biết được quy hoạch của tỉnh như thế nào, trong đó đất lúa có bị vi phạm không, có bị phân kỳ hay không.

Có thể thấy, quá trình luân chuyển chứng từ này sẽ làm chậm quá trình chấp thuận chủ trương đầu tư. Nếu như có những thoả thuận dưới tỉnh trước, xem xét trước nhưng về pháp lý thì chúng tôi không được phép. Luật Đầu tư và Nghị định 31/2021 quy định rất rõ, Thủ tướng chấp thuận phải trình ở Bộ KHĐT, khúc mắc so với quá trình trước đây, khi chúng tôi xin chủ trương đầu tư sẽ làm việc với tỉnh trước, làm việc ở dưới BQL các KCN. Các tỷ lệ đó đã được hiệp thương dưới tỉnh rõ ràng, khi đưa lên nó thuận chiều.

Thứ ba, quy hoạch trong các KCN. KCN là thu hút các doanh nghiệp vào đầu tư, sản xuất, ai cũng hiểu như vậy nhưng trên thực tế thì chưa chắc. Trong thời gian vừa qua có nhiều doanh nghiệp nước ngoài thuê đất tại các KCN, xây dựng nhà xưởng cho thuê lại với các doanh nghiệp sản xuất nhỏ.

Ở đây vướng 2 vấn đề, đó là: theo Nghị định 31 ngành nghề kinh doanh bất động sản sẽ bị hạn chế thu hút đầu tư, tiếp cận đầu tư. Khi hạn chế tiếp cận đầu tư thì nhà đầu tư nước ngoài đương nhiên là vướng. Các nhà đầu tư hạ tầng KCN nhiều khi phải dựa rất nhiều vào nhà đầu tư nước ngoài đi theo để có tệp khách hàng, họ có thể xây nhà xưởng, thậm chí xây nhà máy cho thuê.

Quan điểm này phải làm rõ, trong Điều 27 của Nghị định này, ở Điểm 5 ghi rõ: việc cho thuê hoặc cho thuê lại nhà xưởng, văn phòng… phải bảo đảm tuân thủ các quy định về đất đai, quy định về kinh doanh. Trên thực tế các KCN thu hút sản xuất thì tốt nhưng thu hút các hoạt động logistics trong các KCN là cực kỳ hiếm, có những KCN chẳng đúng với quy hoạch ban đầu. 

----------------------------------------------------------------------------

14h36:

Điều phố chương trình, Nhà báo Phạm Ngọc Tuấn – Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp cho biết, Diễn đàn sẽ trao đổi chuyên sâu về các lĩnh vực quản lý liên quan đến KCN nhìn từ góc độ mới của Nghị định 35/2022.

Nhà báo Phạm Ngọc Tuấn – Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp

Nhà báo Phạm Ngọc Tuấn – Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp

"Chúng ta vừa nghe trao đổi, định hướng từ phía Phó Chủ tịch VCCI Hoàng Quang Phòng, với chức năng của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là nơi tập hợp tất cả các ý kiến, kiến nghị của doanh nghiệp xoay quanh việc thực hiện các chính sách đặc biệt là các chính sách mới ban hành.

Với Nghị định 35 mới ban hành, chúng ta đang chờ đợi những hướng dẫn cụ thể tiếp theo của rất nhiều vấn đề mà luật sư Trần Đại Nghĩa đã tổng hợp ở trên. Trong đó có 8 vấn đề có điểm mới và khắc phục những vướng mắc của Nghị định 82 mà trong hội nghị vào thời điểm tháng 10/2021, chúng tôi cũng đã có góp ý sửa đổi. Có rất nhiều vấn đề mà chúng tôi đã gửi cho quý vị, với khoảng 127 nội dung đã được tập hợp lại gửi các cơ quan liên quan để góp ý, tham gia vào sửa đổi Nghị định 35 này." - Nhà báo Phạm Ngọc Tuấn nói.

Về những điểm mới của Nghị định 35, nhà báo Phạm Ngọc Tuấn cho biết, luật sư Trần Đại Nghĩa đã trao đổi với 8 nhóm vấn đề và tiếp theo đó là 1 nội dung đi sâu vào KCN chuyên ngành. "Đây là vấn đề mà ngay lập tức khi nghị định được ban hành, chúng tôi đã tập trung vào  việc trong quá trình triển khai đánh giá các KCN, có rất nhiều vấn đề mà chúng ta phải chờ đợi những hướng dẫn, tham khảo thêm từ phía các cơ quan chức năng. Và trước khi các cơ quan chức năng có thể ban hành được nội dung phản ánh được ý chí, nguyện vọng của cộng đồng doanh nghiệp xoay quanh vấn đề này, chúng tôi rất mong muốn các chuyên gia, đại diện các cơ quan quản lý và đại diện các nhà đầu tư KCN có thể có những trao đổi và chúng tôi sẽ tập hợp và có nhiệm vụ gửi tất cả các cơ quan chức năng để có những văn bản, hướng dẫn sâu sát hơn và giúp chúng ta có thể thực hiện một cách hiệu quả hơn". - ông Tuấn nói. 

----------------------------------------------------------------------------

14h10:

Thông tin tại Diễn đàn, LS Trần Đại Nghĩa, CEO Công ty TNHH Tư vấn và Đầu tư FII Việt Nam cho biết, Nghị định 35/2022/NĐ-CP quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế ban hành bàn hành ngày 28 tháng 8 năm 2022 là chính sách quan trọng trong việc định hướng phát triển hạ tầng KCN của Việt Nam trong giai đoạn sắp tới. Đặc biệt là các chính sách liên quan đến việc hỗ trợ phát triển các mô hình KCN chuyên dụng như Khu công nghiệp hỗ trợ, Khu công nghiệp chuyên ngành, Khu công nghiệp sinh thái, Khu công nghiệp công nghệ cao.

Tuy nhiên, đối chiếu với các quy định thực tế thì vẫn còn có những vấn đề trở ngại cho việc áp dụng các quy định này ra ngoài thực tế. Vì vậy cần làm rõ những trở ngại này và có những điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện trong các hệ thống pháp luật có liên quan, tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững của các KCN.

LS Trần Đại Nghĩa, CEO Công ty TNHH Tư vấn và Đầu tư FII Việt Nam

LS Trần Đại Nghĩa, CEO Công ty TNHH Tư vấn và Đầu tư FII Việt Nam

Trong Nghị định 35 đã có những điểm mới như:

Một là, sửa đổi bổ sung quy định về quy hoạch khu công nghiệp, khu kinh tế để phù hợp với quy định của Luật Quy hoạch. Trong đó, Nghị định quy định rõ các điều kiện, nguyên tắc xác định số lượng, quy mô diện tích, các trường hợp điều chỉnh khu công nghiệp, khu kinh tế nhằm rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí cho địa phương trong quá trình lập, thẩm định và điều chỉnh quy hoạch khu công nghiệp, khu kinh tế trong quy hoạch vùng, tỉnh.

Theo đó, các doanh nghiệp hiểu rõ các điều kiện phải tuân thủ khi thực hiện quy hoạch khu công nghiệp, khu kinh tế và dễ dàng tiếp cận hệ thống quy hoạch khu công nghiệp, khu kinh tế của các địa phương.

Hai là, về xem xét, chấp thuận chủ trương đầu tư dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp. Các quy định giúp hạn chế việc đầu tư tràn lan khu công nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, nâng cao khả năng chọn lọc các nhà đầu tư có năng lực, kinh nghiệm, đảm bảo thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp có hiệu quả và chất lượng; hạn chế việc chuyển đổi diện tích đất lúa 02 vụ, đảm bảo an ninh lương thực, ổn định cuộc sống người dân. Đối với doanh nghiệp: minh bạch hóa các điều kiện giúp các daonh nghiệp có căn cứ để thực hiện các thủ tục đầu tư các dự án hạ tầng khu công nghiệp.

Ba là, sửa đổi bổ sung các quy định về chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế gồm bổ sung phương thức thu hút vốn đầu tư; Quy định về hoạt động chế xuất và về khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ.

Việc thiếu sự thống nhất giữa các quy định của pháp luật khác nhau và chưa quy định một số điều chỉnh của khu công nghiệp đã gây ra rất nhiều khó khăn, vướng mắc, thậm chí là rủi ro pháp lý cho tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực thi các hoạt động đầu tư trong khu công nghiệp đặc biệt là các hoạt động liên quan đến xây dựng nhà ở cho người lao động. Do vậy, việc sửa đổi, hoàn thiện các quy định này nhằm điều chỉnh hoạt động đầu tư trong khu công nghiệp giúp cho các chủ thể tham gia việc thực hiện quy định nêu trên tiết kiệm thời gian, chi phí, giảm thiểu rủi ro trong quá trình áp dụng pháp luật.

Bốn là, về nhà ở và các công trình dịch vụ, tiện ích cho người lao động trong khu công nghiệp. Khi xác định Danh mục các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, phải đảm bảo quỹ đất để quy hoạch xây dựng nhà ở, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tối thiểu là 2% tổng diện tích của các khu công nghiệp.

Theo thống kê hiện nay, trung bình 92 lao động/ha đất công nghiệp; trong 100 ha đất tự nhiên thì trung bình có khoảng 70 ha đất công nghiệp. Do vậy, trung bình khoảng 6.400 lao động/100 ha đất tự nhiên khu công nghiệp. Căn cứ số liệu nêu trên và các quy chuẩn, định mức về nhà ở theo pháp luật về xây dựng, một khu công nghiệp cần có quỹ đất để xây dựng nhà ở và các công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động tương ứng là 2% (Khoản 4 Điều 4).

Như vậy, hoàn thiện cơ chế để đầu tư xây dựng nhà ở cho người lao động trong khu công nghiệp giúp gia tăng và bùng nổ số lượng nhà ở công nhân và số lượng các tổ chức, doanh nghiệp đầu tư xây dựng, đóng góp quan trọng vào phát triển linh vực nhà ở xã hội.

Năm là, các quy định đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các địa phương; hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, các doanh nghiệp khác thuộc diện được ưu tiên, hỗ trợ.

Đáng chú ý, việc áp dụng linh hoạt tỷ lệ lấp đầy 60% đối với các trường hợp trong Nghị định cũng tạo điều kiện cho các địa phương tại các vùng kinh tế khó khăn, đặc biệt khó khăn mở rộng cơ hội thu hút đầu tư các khu công nghiệp, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, đóng góp kinh tế của địa phương nói chung và cả nước nói riêng; khuyến khích phát triển các mô hình khu công nghiệp ít thâm dụng lao động nhưng thâm dụng vốn, đảm bảo phát triển bền vững theo chiều rộng và chiều sâu.

Các thay đổi này giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể tiếp cận được cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại để phục vụ sản xuất kinh doanh; tăng niềm tin vào các cơ quan quản lý nhà nước trong việc đồng hành, sát cánh và tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp.

Sáu là, bổ sung một số nội dung liên quan đến khu công nghiệp và các mô hình khu công nghiệp mới nhằm đẩy mạnh sự phát triển các loại hình khu công nghiệp, khu kinh tế mới. Đây là các bổ sung mang lại lợi ích trực tiếp cho nhà đầu tư.

Theo đó, các quy định này là cơ sở giúp các doanh nghiệp phát triển các khu công nghiệp giải quyết được các vấn đề nổi lên trong thời gian qua là nhu cầu phát triển các khu chuyên sản xuất một sản phẩm (điện tử, dệt may…) và các khu công nghiệp công nghệ cao nhằm nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư, đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước; giúp các nhà đầu tư có nhiều lựa chọn khác nhau khi đầu tư vào các mô hình khu ở Việt Nam.

Ngoài ra, Nghị định góp phần hoàn thiện cơ chế chính sách về khu công nghiệp sinh thái, tạo niềm tin của nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân vào các mô hình hoạt động về khu công nghiệp xanh, hướng đến phát triển bền vững tại Việt Nam và góp phần thúc đẩy chuyển đổi các khu công nghiệp hiện hữu sang khu công nghiệp sinh thái, tăng việc làm có chất lượng tại địa phương thông qua cải thiện điều kiện làm việc, tăng cường gắn kết và nâng cao lợi ích cộng đồng và trách nhiệm xã hội đối với cộng đồng xung quanh khu công nghiệp.

Bảy là, giá cho thuê đất trong khu công nghiệp. Nghị định bổ sung quy định về biện pháp xử lý trong trường hợp giá cho thuê lại đất trong khu công nghiệp tăng trên 10% so với khung giá cho thuê lại đất đã đăng ký với Ban quản lý các khu công nghiệp. Đảm bảo hài hòa lợi ích kinh tế giữa nhà đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và các doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp. Các Nhà đầu tư hạ tầng khu công nghiệp vẫn đảm bảo yếu tố lợi nhuận trong việc đầu tư các dự án hạ tầng khu công nghiệp trong khi duy trì lợi thế về thu hút đầu tư.

Đối với doanh nghiệp: tạo môi trường đầu tư bình đẳng, tăng niềm tin của các doanh nghiệp vào quản lý nhà nước về khu công nghiệp, khu kinh tế. Tuy nhiên, giải pháp này cũng có hai mặt với nhà đầu tư hạ tầng khu công nghiệp, khu kinh tế. Đối với các nhà đầu tư mà mục tiêu đầu tư dự án nhằm tận dụng lợi thế về mô hình bất động sản khu công nghiệp, nâng giá, chèn ép các nhà đầu tư thứ cấp về giá thì quy định này sẽ là rào cản không cho nhà đầu tư đạt được mục đích của mình. Đối với các nhà đầu tư nghiêm túc, có ý thức cao trong việc thực hiện các cam kết của mình, giải pháp đưa ra sẽ giúp nhà đầu tư hiểu rõ trách nhiệm của mình trong việc duy trì môi trường đầu tư vào khu công nghiệp, khu kinh tế và những hệ quả pháp lý sẽ xảy ra trong trường hợp vi phạm cam kết với Nhà nước.

Tám là, bổ sung nội dung về Hệ thống thông tin quốc gia về khu công nghiệp, khu kinh tế. Điều đó giúp giảm chi phí về thủ tục hành chính và các chi phí tuân thủ khác có liên quan cho nhà đầu tư, doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước thông qua việc thực hiện các báo cáo trên Hệ thống. Ngoài ra, hệ thống còn nâng cao hiệu quả trong công tác xúc tiến đầu tư thông qua việc các cá nhân và doanh nghiệp được hưởng lợi từ việc tra cứu các thông tin về pháp luật, môi trường đầu tư, thông tin ngành nghề, tình hình hoạt động của các khu công nghiệp, khu kinh tế để phân tích, đánh giá và đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn.

Đối với các nhà đầu tư và doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu kinh tế: thuận lợi, nhanh chóng trong việc thực hiện công tác báo cáo trực tuyến cho các cơ quan quản lý; tăng niềm tin cho doanh nghiệp trong việc đầu tư vào khu công nghiệp, khu kinh tế. Đối với các cá nhân, tổ chức có nhu cầu: có thể tra cứu thông tin trong cơ sở dữ liệu được phép công khai theo quy định.

Chín là, về thành lập khu công nghiệp. Nghị định bãi bỏ quy định thành lập khu công nghiệp. Việc cải cách quy định về thủ tục này giúp người dân và doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí, thời gian trong quá trình hoạt động, giúp làm giảm thiểu rủi ro đối với hoạt động kinh doanh và đối với những người tham gia quản lý, vận hành việc kinh doanh.

Toàn cảnh

Toàn cảnh Diễn đàn "Triển khai Nghị định 35/2022/NĐ-CP về quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế"

Vị Luật sự cũng phân tích thêm, khu công nghiệp nói chung theo quy định của Nghị định 35/2022/NĐ-CP là khu vực có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và cung ứng dịch vụ cho sản xuất công nghiệp

Hiện nay, khi các tổ chức, cá nhân đầu tư mới hoặc chuyển đổi toàn bộ hoặc một phần khu công nghiệp đã được thành lập sang hoạt động theo các loại hình KCN chuyên sâu như: (1) Khu công nghiệp hỗ trợ; (2) Khu công nghiệp chuyên ngành; (4) Khu công nghiệp sinh thái; (4) Khu công nghiệp công nghệ cao, đây là những mô hình KCN đã phổ biến và có nhiều ví dụ thành công trên thế giới.

Thứ nhất, Chính sách với khu công nghiệp hỗ trợ, khu công nghiệp chuyên ngành, khu công nghiệp công nghệ cao có các chính sách hỗ trợ được thể hiện qua hai đối tượng chính là Dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp; Dự án đầu tư sản xuất trong các khu công nghiệp nêu trên. Được miễn, giảm tiền thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai; Được ưu tiên vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước, thực hiện các hình thức huy động vốn hợp pháp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về tín dụng và quy định khác của pháp luật có liên quan; Được đưa vào danh mục dự án thu hút đầu tư.

Để được hưởng các chính sách ưu đãi, thì Nhà đầu tư các dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp nghiệp hỗ trợ, khu công nghiệp chuyên ngành, khu công nghiệp công nghệ cao phải cam kết cụ thể các nộ dung liên quan đến: Ngành, nghề thu hút đầu tư; Tỷ lệ diện tích đất công nghiệp cho các dự án đầu tư thuộc ngành, nghề thu hút đầu tư trong hồ sơ dự án đầu tư xây dựng.

Tuy nhiên Nghị định 35/2022/NĐ-CP lại chưa quy định cụ thể thủ tục, trình tự thẩm định các nội dung liên quan tới vấn đề này, quy định như hiện tại mới chỉ dừng lại ở pháp luật về nội dung chứ chưa quy định về hình thức. Ngoài ra còn là việc quản lý việc thu hút đầu tư của các NĐT hạ tầng KCN, nếu họ cho các đối tượng khác không phải đối tượng được ưu đãi thuê đất vượt quá cam kết đã quy định thì chế tài xử lý sẽ ra sao cũng chưa thực sự rõ ràng. Để khắc phục tình trạng này có thể đặt ra các quy định cụ thể hơn ở mức Nghị định để tăng cường sự quản lý, tránh đi việc đề xuất dự án để nhận ưu đãi nhưng lại không thực hiện các cam kết trong đề xuất dự án đầu tư.

Thứ hai, với chính sách với khu công nghiệp sinh thái, doanh nghiệp sinh thái. Đây là đối tượng được quy định rất kỹ trong Nghị định 35/2022/NĐ-CP. Với chủ trương phát triển bền vững thì việc khuyến khích phát triển mô hình này là rất thiết thực, điều đó giúp thực hiện mục tiêu tiết kiệm năng lượng, giảm các nguồn gây ô nhiễm, đặc biệt là giảm phác thải khí Các-bon. Để thực hiện mục tiêu trên thì các chính sách tập trung vào ba vấn đề chính: Hỗ trợ để chuyển đổi các KCN hiện hữu thành KCN sinh thái; Hỗ trợ đầu tư xây dựng mới và thu hút đầu tư vào khu công nghiệp sinh thái; Hỗ trợ khoa học, kỹ thuật, chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp.

Ba chính sách hỗ trợ nêu trên đã phổ quát các đối tượng trong việc phát triển hạ tầng KCN bao gồm NĐT hạ tầng KCN (xây mới lẫn hiện hữu) và NĐT thứ cấp trong các KCN. Các đối tượng này phải thực hiện việc chuyển đổi hoặc xây dựng mới các cơ sở hạ tầng của mình để phù hợp với các tiêu chí của một KCN sinh thái, cụ thể tại Khoản 1 Điều 37 Nghị định 35/2022/NĐ-CP với Nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, nếu xây dựng mới thì còn phải đáp ứng các Điều kiện tại Khoản 2 Điều 38 của Nghị định 35/2022/NĐ-CP. Với các Nhà đầu tư thứ cấp trong KCN sinh thái thì phải đáp ứng các điều kiện tại Khoản 2 Điều 37 Nghị định 35/2022/NĐ-CP.

Câu hỏi đặt ra đầu tiên đặt ra với KCN sinh thái và doanh nghiệp sinh thái chính là: “Tại sao các doanh nghiệp lại muốn đạt được các chứng nhận về KCN sinh thái và doanh nghiệp sinh thải?”. Như chúng ta đều biết thì việc triển khai các mô hình sinh thái đều rất tốn kèm chi phí, vì vậy nếu không có như chính sách ưu đãi đặc biệt hơn trong việc triển khai mô hình này thì chắc chắn doanh nghiệp sẽ không tham gia. Vì vậy, trong Nghị định 35/2022/NĐ-CP quy định nhiều hơn các ưu đãi danh cho loại hình KCN này ngoài việc được ưu đãi theo các mô hình KCN chuyên sau nói chung.

Tóm lại, Nghị định 35/2022/NĐ-CP là một chính sách đúng đắn trong việc định hình phát triển hệ thống các KCN chuyên sâu tại Việt Nam. Các quy định này đã làm rõ khái niệm về một KCN chuyên sâu vốn trong điều kiện Việt Nam.

Nhà đầu tư khi tham gia vào các mô hình này ngoài các ưu đãi được hưởng theo quy định của pháp luật nói chung về KCN thì còn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền hỗ trợ về thủ tục hành chính, tư vấn kỹ thuật, xúc tiến đầu tư, cung cấp thông tin hợp tác đầu tư theo quy định tại Nghị định 35/2022/NĐ-CP. Đây là một trong những quy định tiến bộ, những quy định này sẽ tạo động lực để các doanh nghiệp phát triển có chiều sâu, thu hút được những nguồn vốn chất lượng, cũng như tăng cường sức cạnh tranh của hàng hóa sản xuất tại Việt Nam “Made in Vie Nam”.

Sự phát triển của loại hình các KCN chuyên sâu này cũng phù với định hướng phát triển hệ thống khu công nghiệp đã được quy định tại Điều 4 của Nghị định 35/2022/NĐ-CP, cũng là cụ thể hóa các chủ trương, định hướng phát triển của theo Quy hoạch tỉnh. Đối với từng mô hình thì sẽ có những quy định cụ thể để triển khai, tuy nhiên theo những quy định Nghị định 35/2022/NĐ-CP hiện nay thì để triển khai thành công chính sách ra thực tiễn cũng đang cần những hoàn thiện nhất định trong hệ thống pháp luật cũng như sự sự phối hợp của các bộ ngành, địa phương liên quan.

----------------------------------------------------------------------------

14h05:

Phát biểu khai mạc Diễn đàn, ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, cách đây hơn 30 năm, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ mở của và hội nhập với kinh tế thế giới. Tại thời điểm đó việc hình thành và phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế là tiền đề và động lực để thúc đẩy sản xuất trong nước, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, tạo ra bước đột phá, cải thiện nền kinh tế đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường Quốc tế.

Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)

Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)

Chỉ trong vòng hơn 3 thập kỷ hình thành và phát triển, đã có hàng trăm khu công nghiệp (KCN) đi vào hoạt động, hệ thống KCN, khu kinh tế (KKT) của Việt Nam là điểm đến của hàng ngàn doanh nghiệp từ hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ.

“Có thể khẳng định, việc hình thành và phát triển KCN, KKT là hướng đi chiến lược, quan trọng của Việt Nam trong việc kêu gọi, thu hút vốn FDI. Các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu kinh tế ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thu ngân sách, tạo công ăn việc làm, góp phần nâng cao sức cạnh tranh, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Phó Chủ tịch VCCI khẳng định.

Đồng thời, ông Hoàng Quang Phòng cho biết, đến nay, các KCN, KKT vẫn là điểm nhấn thu hút đầu tư và được đánh giá là mô hình đầu tư ưu việt, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nhiều địa phương.

Để các KCN, KKT đi vào hoạt động một cách chuyên nghiệp, bài bản, ngày 22/5/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 82/2018/NĐ-CP Quy định về việc Quản lý khu Công nghiệp và Khu kinh tế.

Ông Hoàng Quang Phòng nhấn mạnh, Nghị định 82 ra đời với những quy định cụ thể, rõ ràng đã giúp các địa phương trong cả nước thuận lợi hơn trong việc quy hoạch và phát triển mô hình các khu công nghiệp, khu kinh tế, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, chấp hành ngày càng tốt những quy định pháp luật, của địa phương.

Tuy nhiên, Phó Chủ tịch VCCI cũng thẳng thắn, gần 5 năm triển khai Nghị định 82, do tốc độ phát triển nhanh của nền kinh tế đất nước, do tiến trình hội nhập sâu rộng của kinh tế toàn cầu dẫn đến một số quy định về quy hoạch, hạ tầng kỹ thuật cũng như hạ tầng xã hội của các KCN, KKT bắt đầu xuất hiện những hạn chế, bất cập. Việc phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế theo quy mô mở rộng gặp nhiều khó khăn, hiệu quả khai thác tài nguyên chưa cao; chưa đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế với yêu cầu về bảo vệ môi trường, đảm bảo an sinh xã hội;  lợi thế cạnh tranh của khu công nghiệp, khu kinh tế trong điều kiện các ưu đãi về thuế, đất đai đang có xu hướng giảm dần; liên kết và hợp tác sản xuất trong KCN, KKT của Việt Nam còn hạn chế.

Trong bối cảnh đó, ngày 28/5/2022  Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 35/2022/NĐ-CP quy định về quản lý Khu công nghiệp và khu kinh tế giúp khắc phục những hạn chế mà Nghị định 82.

Phó Chủ tịch VCCI nhận định, việc Chính phủ ban hành Nghị định số 35/2022/NĐ-CP là việc làm thiết thực, kịp thời, phù hợp thực tiễn nhằm mục đích hoàn thiện và tạo đà cho tiến trình xây dựng một hành lang pháp lý góp phần hình thành những khu công nghiệp chuyên biệt, hiện đại, xanh, sạch và đầy đủ hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội.
“Dù được đánh giá là mang tính đột phá, thiết thực, lược bỏ tương đối các thủ tục hành chính rườm rà, tuy nhiên hiện nay, việc thực hiện, triển khai Nghị định số 35/2022 vẫn có những điểm nghẽn cần được tháo gỡ”, ông Hoàng Quang Phòng thẳng thắn.

Từ thực tế này, nhằm tiếp thu ý kiến của các chuyên gia, doanh nghiệp, đề xuất các cơ quan quản lý ban hành những hướng dẫn phù hợp, kịp thời bổ sung, điều chỉnh, giúp Nghị định số 35/2022/NĐ-CP sớm đi vào thực tiễn, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chỉ đạo tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức Diễn đàn Triển khai Nghị định 35/2022/NĐ-CP quản lý Khu công nghiệp và Khu kinh tế”, Phó Chủ tịch VCCI đề nghị các đại biểu tham dự thẳng thắn đề xuất những giải pháp điều chỉnh phù hợp, kịp thời giúp các doanh nghiệp, nhà đầu tư hoạt động một cách chuyên nghiệp, ổn định và hiệu quả hơn nữa.

Nhân dịp sự kiện này, nhằm động viên, khuyến khích các chủ đầu tư Khu công nghiệp đã tạo nên những khu công nghiệp xanh, sạch, đáp ứng đầy đủ hạ tầng kỹ thuật và xã hội, Ban tổ chức cũng tổ chức khảo sát, bình chọn và trao Chứng nhận cho các Khu công nghiệp tiêu biểu năm 2022.

----------------------------------------------------------------------------

Việt Nam hiện có 260 khu công nghiệp (KCN) đã đi vào hoạt động và 75 KCN đang trong quá trình xây dựng. Hệ thống KCN của Việt Nam đang là điểm đến của hàng ngàn doanh nghiệp từ 122 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam có vị trí địa chiến lược trong phát triển bất động sản công nghiệp, nền chính trị ổn định, nguồn lao động dồi dào, kinh tế tăng trưởng tốt. 

Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững các KCN, nằm trong chuỗi sự kiện “Xây tổ đón đại bàng”, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức Diễn đàn:

TRIỂN KHAI NGHỊ ĐỊNH 35/2022/NĐ-CP VỀ QUẢN LÝ KCN, KKT &TRAO CHỨNG NHẬN BÌNH CHỌN KHU CÔNG NGHIỆP TIÊU BIỂU 2022

Thời gian: 13h30-17h00 thứ sáu ngày 26/ 8//2022

Địa điểm: Hội trường tầng 3 Khách sạn Kim Liên - Số 07 Đào Duy Anh, Đống Đa, Hà Nội

Diễn đàn Triển khai Nghị định 35 về Quản lý KCN, KKT, ngoài tham luận của lãnh đạo Bộ Kế hoạch Đầu tư, đại diện Bộ Tài nguyên Môi trường về những điểm mới của Nghị định 35, sẽ gồm 2 phiên thảo luận chính:

  • Phiên 1: “Quản lý KCN, KKT nhìn từ Nghị định 35/2022/NĐ-CP” với các nội dung chính: Phân tích những điểm mới của Nghị định 35, Làm rõ vai trò của UBND các tỉnh/thành trong quy hoạch xây dựng nhìn từ Nghị định 35, những lưu ý trong quá trình áp dụng, một số đề xuất, kiến nghị khi triển khai…
  • Phiên 2: Là chuỗi các vấn đề xoay quanh “Dự báo thị trường Bất động sản Công nghiệp năm 2022”: Đánh giá tác động của Nghị định 35 tới thu hút đầu tư vào các KCN giai đoạn mới, tháo gỡ điểm nghẽn và nâng cao hiệu quả xúc tiến đầu tư vào các KCN…

Với sự tham gia thảo luận của các khách mời là lãnh đạo các Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên Môi trường, những chuyên gia kinh tế, chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực bất động sản, xây dựng, nhà đầu tư hạ tầng KCN và đại diện lãnh đạo UBND các tỉnh, thành. Cùng với đó là sự hiện diện của lãnh đạo VCCI, lãnh đạo Hội Xây dựng Việt Nam và các tỉnh thành; các chuyên gia bất động sản, kinh tế, tài chính Việt Nam; cùng đại diện các chủ đầu tư dự án BĐS KCN; phóng viên các tờ báo, tạp chí hàng đầu về kinh tế, bất động sản trên cả nước…

Đặc biệt, tại diễn đàn sẽ diễn ra lễ Trao chứng nhận Khu công nghiệp tiêu biểu nhằm vinh danh các KCN có những đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của thị trường BĐS công nghiệp Việt Nam; qua đó thúc đẩy các doanh nghiệp trong việc đầu tư, xây dựng và đưa ra thị trường các KCN có chất lượng, bền vững; đồng thời nâng cao ý thức nhà đầu tư trong việc lựa chọn các khu công nghiệp uy tín, góp phần hoàn thiện chính sách và phát triển thị trường bất động sản công nghiệp Việt Nam…

Đối tượng bình chọn là các KCN trên cả nước, bao gồm: KCN hỗ trợ; KCN Chuyên ngành; KCN Sinh thái; Khu Công nghệ cao; KCN- Đô thị Dịch vụ; KCN Đa ngành (hỗn hợp); Các loại hình KCN khác…

Các doanh nghiệp được bình chọn sẽ nhận được chứng nhận “Khu công nghiệp tiêu biểu 2022” và Kỷ niệm chương. Ngoài ra, còn có các chứng nhận chuyên đề như “ KCN thân thiện với môi trường”, “KCN có chuỗi công nghiệp & hạ tầng logistics đồng bộ”, “KCN có hạ tầng an sinh xã hội tốt”.

Chương trình được tường thuật trực tuyến từ Khách sạn Kim Liên - Số 07 Đào Duy Anh, Đống Đa, Hà Nội

NGÂN LAN - DIỄM HẰNG - DƯƠNG HIỀN - TUẤN NGỌC