Để xuất khẩu nông sản "về đích"
Thống kê từ Bộ NN&PTNT, 6 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản (NLTS) đạt 24,59 tỷ USD, giảm 11,1% so với cùng kỳ năm 2022, vậy làm sao hiện thực mục tiêu 55 tỷ USD năm 2023?
>>>Điều kiện để xuất khẩu nông sản “về đích”: Phát triển doanh nghiệp “đầu tàu”
Thống kê từ Bộ NN&PTNT, 6 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản (NLTS) đạt 24,59 tỷ USD, giảm 11,1% so với cùng kỳ năm 2022.
Gạo, hạt điều tăng trưởng mạnh
Tốc độ tăng GDP ngành nông lâm thuỷ sản (NLTS) 6 tháng đầu năm khá cao, đạt 3,07%; trong đó, nông nghiệp tăng 3,14%; lâm nghiệp tăng 3,43%; thủy sản tăng 2,77%. Tốc độ tăng giá trị sản xuất NLTS ước đạt 3,1%; trong đó, nông nghiệp tăng 3,14% (trồng trọt tăng 2,11%, chăn nuôi tăng 4,88%), lâm nghiệp tăng 3,43%, thủy sản tăng 2,96%.
Cùng với đó, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản (NLTS) đạt 24,59 tỷ USD, giảm 11,1% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, nhóm nông sản chính 12,79 tỷ USD, tăng 12%; sản phẩm chăn nuôi 232 triệu USD, tăng 26,5%; thuỷ sản 4,13 tỷ USD, giảm 27,4%; lâm sản chính 6,5 tỷ USD, giảm 28,2%; đầu vào sản xuất 940 triệu USD, giảm 28,9%; muối 2,4 triệu USD, giảm 14,2%.
Đóng góp vào kết quả đó, có 7 sản phẩm, nhóm sản phẩm có giá trị xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD gồm cà phê, cao su, gạo, rau quả, hạt điều, tôm, sản phẩm gỗ.
"Với đà phục hồi này thì dự kiến kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đến hết quý III sẽ bằng với quý III/2022 và sang quý IV có thể đẩy mạnh tăng trưởng. Với nhiều giải pháp, ngành nông nghiệp vẫn kiên định mục tiêu đạt 55 tỷ USD xuất khẩu nông lâm thủy sản trong năm 2023" - Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến.
Trong đó gạo và hạt điều là 2 sản phẩm tăng cả khối lượng và giá trị xuất khẩu. Riêng cà phê tuy giảm về khối lượng nhưng nhờ giá xuất khẩu bình quân tăng 5,2% nên giá trị xuất khẩu vẫn tăng.
Về thị trường xuất khẩu, Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản tiếp tục là 3 thị trường xuất khẩu các mặt hàng NLTS lớn nhất của Việt Nam. Giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm 21,4%, tăng 7,7%; xuất khẩu sang Hoa Kỳ chiếm 20,2%, giảm 32,9% và xuất khẩu sang Nhật Bản chiếm 7,7%, giảm 5,3%.
Nhìn vào bức tranh xuất khẩu nông lâm thuỷ sản nửa đầu năm 2023 có thể thấy, những mặt hàng chủ lực như thuỷ sản, lâm sản giảm mạnh do nhu cầu tiêu thụ giảm mạnh tại các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU,…
Với tình hình khó khăn chung, xuất khẩu nông lâm thủy sản gặp khó do kinh tế thế giới tiếp tục gặp nhiều khó khăn, lạm phát cao tại một số quốc gia phát triển; các chính sách thắt chặt tiền tệ, nhất là ở các thị trường lớn như Hoa Kỳ và Châu Âu khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn trong ký kết và thực hiện các đơn hàng. Xung đột Nga - Ukraine tiếp tục diễn biến phức tạp,... Cùng với đó, nhiều quốc gia thực thi chính sách tăng cường bảo hộ sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong nước, đẩy mạnh sản xuất nông sản để chủ động nguồn cung.
Riêng đối với thị trường thủy sản, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản (VASEP) cho biết, nhu cầu tiêu thụ giảm ở hầu hết các thị trường chính và tác động xấu đến sản xuất trong nước. Diễn biến này có dấu hiệu bắt đầu từ Quý 4/2022 khi các chỉ số lạm phát tăng cao và đồng tiền mất giá tại nhiều thị trường, khiến sức mua của người dân các nước giảm sút, nhà nhập khẩu tồn kho lớn.
Theo đó, từ cuối 2022, nhiều nhà nhập khẩu đã yêu cầu dừng nhận các đơn hàng từ 3-5 tháng (dù đã ký hợp đồng), các đơn hàng ký mới cũng giảm đáng kể. Diễn biến này khiến các doanh nghiệp Việt Nam chịu ngay một loạt áp lực lớn từ đầu quý I/2023 năm nay: tồn kho tăng cao, phải điều chỉnh giảm công suất sản xuất, thiếu dòng tiền về để tiếp tục thu mua nguyên liệu của nông-ngư dân và trả các khoản vay ngân hàng đến hạn.
Theo khảo sát của Hiệp hội và phản ánh của các doanh nghiệp, Quý I/2023, chỉ số đơn hàng giảm 20-50% trong khi nhiều mặt hàng giá xuất khẩu giảm so với 2022; tồn kho tăng cao ở nhiều doanh nghiệp. Tình hình các đơn hàng Quý II/2023 cũng chỉ đạt 30-60% so với quý 2 năm ngoái.
>>>Các thị trường lớn của nông sản Việt phục hồi
>>>Điều kiện để xuất khẩu nông sản “về đích”: Củng cố, duy trì chờ… bứt phá
Lấy lại đà tăng trưởng
Theo dự báo, trong thời gian sắp tới, tình hình xuất khẩu của các ngành hàng sẽ có nhiều biến động. Trong đó, đối với rau quả, theo đại diện Hiệp hội Rau quả Việt Nam, ngành rau quả có thể sẽ đạt 4 tỷ USD năm 2023, tăng 20% so với năm ngoái. Phần tăng thêm này hoàn toàn khả thi nếu xuất khẩu sầu riêng đạt mục tiêu trên 1 tỷ USD.
Đối với gạo, Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) dự báo, tình hình xuất khẩu gạo quý II của Việt Nam sẽ duy trì đà tăng trưởng tích cực và thực tế đã cho thấy điều này. Đặc biệt, do ảnh hưởng của những bất ổn về kinh tế, chính trị và nhu cầu dự trữ lương thực của các quốc gia tăng lên, nên giá gạo xuất khẩu vẫn duy trì ở mức cao.
Trong khi đó, đối với cà phê, dự báo tốc độ tăng giá cà phê thế giới sẽ chậm lại do lo ngại lạm phát ở Châu Âu và lãi suất ở Hoa Kỳ sẽ ảnh hưởng đến chi tiêu của người tiêu dùng khiến mức tiêu thụ cà phê sẽ giảm. Thuỷ sản và lâm sản cũng được dự báo tiếp tục giảm trong ngắn hạn.
Để duy trì đà tăng trưởng ở những mặt hàng tỷ USD, đồng thời lấy lại đà phục hồi cho một số mặt hàng chủ lực, hiện thực hoá mục tiêu xuất khẩu 55 tỷ USD năm 2023, Bộ NN&PTNT cho biết sẽ phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương thực hiện các cơ chế, chính sách đối với công tác xúc tiến thương mại, đàm phán mở cửa, phát triển thị trường để giải quyết kịp thời các vướng mắc thúc đẩy xuất khẩu NLTS.
Chủ động dự báo, tranh thủ cơ hội từ FTAs để thúc đẩy xuất khẩu. Nắm bắt tình hình sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản, thúc đẩy lưu thông, thương mại biên giới, triển khai thực hiện các biện pháp cấp bách giảm ùn ứ và thúc đẩy xuất khẩu nông sản tại các cửa khẩu biên giới phía Bắc, nhất là đối với các nông sản vào vụ thu hoạch.
Bên cạnh đó, phối hợp với Đại sứ quán, Tham tán Thương mại, Tham tán Nông nghiệp Việt Nam tại các nước xây dựng các kênh trao đổi, cung cấp thông tin các thị trường xuất khẩu, tăng cường xúc tiến, quảng bá đối với các sản phẩm đã được mở cửa, xuất khẩu chính ngạch vào các thị trường gắn liền với các hoạt động ngoại giao của Chính phủ và của Bộ vào các thị trường lớn (Trung Quốc, Hoa Kỳ, EU, Nga, Braxin) và khai thác hiệu quả các thị trường tiềm năng (Nhật Bản - Hàn Quốc, Asean, Úc - New Zealand, Trung Đông, Châu phi...).
Đàm phán để xuất khẩu dừa tươi sang Hoa Kỳ, thống nhất với Nhật Bản về tem mới đối với mặt hàng Xoài và Thanh long quả tươi của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản từ 01/8/2023.
Đặc biệt, Bộ NN&PTNT cho biết trao đổi với Tổng Cục Hải quan Trung Quốc để hoàn thiện dự thảo Nghị định thư về yêu cầu nhập khẩu ớt và các loại quả tươi truyền thống của Việt Nam (trừ chuối. Tổ chức họp với Tổng cục Hải quan Trung Quốc về Lệnh 248 và 249 và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong xuất khẩu; tổ chức tiếp đón và làm việc với đoàn thanh tra của EU đánh giá hệ thống kiểm soát an toàn thực phẩm thủy sản và các doanh nghiệp chế biến thủy sản của Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm
Điều kiện để xuất khẩu nông sản “về đích”: Phát triển doanh nghiệp “đầu tàu”
11:13, 04/06/2023
“Ùn ứ” nông sản tái diễn, Thủ tướng chỉ đạo khẩn
04:11, 02/06/2023
Các thị trường lớn của nông sản Việt phục hồi
04:10, 30/05/2023
Điều kiện để xuất khẩu nông sản “về đích”: Động lực từ xuất khẩu rau quả
10:00, 15/05/2023
Điều kiện để xuất khẩu nông sản “về đích”: Củng cố, duy trì chờ… bứt phá
03:30, 14/05/2023