Tháo gỡ khó khăn, tạo không gian phát triển mới cho doanh nghiệp

THOẢ HẰNG - HẠNH CẨM - PHƯƠNG HIỀN - TUẤN NGỌC - VI ANH 19/07/2023 09:20

“Diễn đàn phát triển kinh doanh: Tháo gỡ khó khăn, tạo không gian phát triển mới cho doanh nghiệp” tìm ra cơ hội cho tăng trưởng kinh tế trong những tháng còn lại của năm 2023 và năm 2024.

Nửa đầu năm 2023 là thời gian nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức do tác động bất lợi của kinh tế thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã chậm lại.

Tuy nhiên, trong khó khăn, nhiều doanh nghiệp đã tìm được không gian tăng trưởng mới từ việc tận dụng lợi thế của các hiệp định thương mại tự do, sự phát triển nhanh của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và xu hướng tăng trưởng xanh đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu

Nhằm góp phần phản ánh bức tranh về thực trạng kinh tế thế giới và Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2023, nhận diện những thách thức và cơ hội cho tăng trưởng kinh tế trong những tháng còn lại của năm 2023 và năm 2024, được sự chỉ đạo của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức chương trình: DIỄN ĐÀN PHÁT TRIỂN KINH DOANH: Tháo gỡ khó khăn, tạo không gian phát triển mới cho doanh nghiệp

Toàn cảnh

Toàn cảnh “Diễn đàn phát triển kinh doanh: Tháo gỡ khó khăn, tạo không gian phát triển mới cho doanh nghiệp” do Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức ngày 19/07/2023.

Tham dự Diễn đàn có: Ông Hoàng Quang Phòng - Phó Chủ tịch Liên đoàn thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI); Ông Nguyễn Hồng Long – Phó Trưởng ban chuyên trách Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển Doanh nghiệp; T.S Phan Đức Hiếu - Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội; GS.TS Hoàng Văn Cường - Uỷ viên Uỷ ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế quốc dân; TS. Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM); PGS. TS Bùi Quang Tuấn – Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam; Ông Nguyễn Quốc Hiệp – Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam (VACC); Ông Ngô Sĩ Hoài - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam; Ông Trương Văn Cẩm - Phó chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS); Ông Nguyễn Chỉ Sáng - Phó chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam; TS Nguyễn Quốc Hùng – Phó Chủ tịch Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam; Ông Nguyễn Vân - Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội doanh nghiệp ngành công nghiệp hỗ trợ TP Hà Nội; Ông Mạc Quốc Anh - Phó chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ thành phố Hà Nội; Ông Hà Anh Tuấn – Phó Ban Hợp tác của Hiệp hội Thương mại Điện tử Việt Nam; Ông Cao Tiến Đoan - Chủ tịch Hiệp hội DN tỉnh Thanh Hóa; Ông Phạm Văn Việt - Tổng Giám đốc Việt Thắng Jeans; Ông Nguyễn Phước Hải - Phó Chủ tịch cấp cao Tập đoàn Công nghệ CMC/TGĐ CMS; Ông Lê Hùng Cường - Phó Tổng Giám đốc FPT Digital; Ông Hà Văn Thắng - Chủ tịch HĐQT Công ty CP. T159 Hòa bình; Nhà báo Nguyễn Linh Anh – Phó Tổng biên tập phụ trách Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp. Tham dự Diễn đàn còn có đại diện các hiệp hội, doanh nghiệp...

Chương trình được phát trực tiếp trên các nền tảng số của tạp chí: https://diendandoanhnghiep.vn; Youtube DiendandoanhnghiepTV; Fanpage Tạp chí Diễn đàn doanh nghiệp.

Ban Tổ chức tân trọng cảm ơn các doanh nghiệp đồng hành cùng chương trình: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) và Tổng công ty khí Việt Nam - Công ty cổ phần (PVgas).

YÊU CẦU ĐỔI MỚI ĐỂ BẮT KỊP XU THẾ

Phát biểu khai mạc, ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhấn mạnh, thời gian qua, do các biến động phức tạp về địa chính trị thế giới đã và các thị trường lớn của Việt Nam đang ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế nước ta cũng như các chỉ số về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

 ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)

Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)

Theo đó, bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm kéo dài sự không thuận lợi từ cuối năm 2022 trước đó. Theo đó, GDP 6 tháng đầu năm chỉ tăng 3,72%, đây là mức tăng thấp so với GDP cùng kỳ trong giai đoạn 10 năm qua (chỉ cao hơn tốc độ tăng 1,74% cùng kỳ của năm 2020 – do ảnh hưởng mạnh của Covid-19 thời điểm đó).

Tính chung 6 tháng đầu, Việt Nam duy trì thặng dư thương mại 12,25 tỷ USD. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đều giảm mạnh so với cùng kỳ, lần lượt giảm 12,1% và 18,2% do nhu cầu từ các thị trường chính của Việt Nam như Hoa Kỳ, ASEAN, EU và một số quốc gia Đông Á đều giảm. Lượng xuất khẩu tới thị trường Hoa Kỳ giảm mạnh nhất với mức 22,6%, lượng nhập khẩu từ Hàn Quốc chứng kiến mức giảm 25,6% - lớn nhất trong các thị trường chính. Điều này cũng khiến cho sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu của Việt Nam giảm mạnh so với cùng kỳ 2022.

Tình hình sản xuất kinh doanh trong thời gian tới dự kiến tiếp tục gặp nhiều khó khăn: ảnh hưởng của dịch COVID-19 vẫn còn hiện hữu; vấn đề biến đổi khí hậu, hạn hán, lũ lụt diễn ra bất thường; cạnh tranh chiến lược của các cường quốc; xung đột Nga - Ucraina chưa có hồi kết; vấn đề lạm phát ở nhiều quốc gia; giá xăng dầu, nhiên, nguyên vật liệu còn ở mức cao; sự phục hồi chậm và khó khăn của các đối tác thương mại lớn... Ngoài ra, sự dịch chuyển chuỗi giá trị, yêu cầu của đối tác, thị trường theo hướng sản xuất và tiêu dùng bền vững, xu hướng kinh tế xanh, kinh tế số, cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ...

“Điều đó đang đặt ra yêu cầu cho các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đổi mới để bắt kịp xu thế mới nếu không sẽ bị giảm sức cạnh tranh và bị mất cơ hội tiến sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu”, Phó Chủ tịch VCCI nhấn mạnh.

Đồng thời cho biết, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững cả về lượng và chất, thực sự trở thành lực lượng quan trọng đảm bảo tính tự chủ của nền kinh tế, Chính phủ và các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thực hiện quyết liệt, hiệu quả nhiều giải pháp trọng tâm hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp.

Đối với VCCI, để tiếp tục tạo thuận lợi cho quá trình phục hồi và phát triển của doanh nghiệp những tháng cuối năm 2023 và những năm tiếp theo, VCCI đã đề xuất một số giải pháp lớn cần thực hiện.

Cụ thể, thứ nhất, tập trung hoàn thiện khung khổ pháp lý về đầu tư kinh doanh. Thứ hai, tiếp tục có các giải pháp giảm chi phí cho doanh nghiệp, tăng cường khả năng tiếp cận nguồn lực từ các gói hỗ trợ của Nhà nước.

Thứ ba, cần có giải pháp kịp thời hỗ trợ một số ngành đang phục hồi mạnh mẽ như du lịch, dịch vụ hiện đang đối mặt với khó khăn về thiếu hụt nhân lực.

Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp lý tạo thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của các mô hình kinh doanh dựa trên đổi mới, sáng tạo.

Thứ năm, đẩy mạnh chương trình cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Tuy nhiên, ông Hoàng Quang Phòng khẳng định, chỉ có doanh nghiệp mới biết doanh nghiệp cần gì nhất. Và chính cộng đồng doanh nghiệp cần xác định các thách thức, cơ hội để bàn các giải pháp giúp doanh nghiệp phát triển bền vững thành công.

CẦN NÂNG CAO TIẾNG NÓI CỦA CÁC HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP

Phát biểu tại Diễn đàn, ông Nguyễn Hồng Long, Phó Trưởng ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, cho biết, hiện nay, Việt Nam đang chịu ảnh hưởng không chỉ những khó khăn từ nội tại mà còn có những khó khăn chung của toàn thế giới. Các nền kinh tế lớn trên thế giới đang có xu hướng chững lại, thậm chí là suy thoái. 

Xuất phát từ những khó khăn từ thực tiễn, Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã tập trung vào việc phục hồi nền kinh tế, đặc biệt là cho các doanh nghiệp với mục tiêu thúc đẩy hơn nữa công ăn việc làm và các yếu tố khác.

 Ông Nguyễn Hồng Long, Phó Trưởng ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp

Ông Nguyễn Hồng Long, Phó Trưởng ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp.

Vừa rồi rất nhiều chính sách về tài khóa và tín dụng đã được ban hành. Tuy nhiên, theo ông Long, vẫn còn hai vấn đề quan trọng cần được lưu ý là thứ nhất, bản thân các cơ chế chính sách đã phù hợp với thời điểm nhưng có thể chưa thực tế đối với một số ngành nghề, đối tượng. Thứ hai, nội tại của các doanh nghiệp được thụ hưởng tiếp cận thế nào và hấp thụ. Năm 2023 Chính phủ đã có nhiều cuộc làm việc với các doanh nghiệp tư nhân, FDI, nhà nước… Gần đây nhất, ngày 6/7, Thường trực Chính phủ đã có cuộc làm việc với Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tại cuộc họp này, Thủ tướng đã có 7 kiến nghị giao cho các Bộ, ngành xử lý.  

Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 58 ngày 21/4/2023 về một số chính sách giải pháp trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững đến năm 2025. Tại Nghị quyết này, Chính phủ đã quy định rất rõ chiến lược giải quyết các vấn đề cấp bách trong ngắn hạn trong năm 2023, cũng như chiến lược cho năm 2025. 

Theo đó, quan điểm của Chính phủ là tiếp tục đồng hành hỗ trợ tối đa cho các doanh nghiệp, coi việc tháo gỡ các rào cản khó khăn cho doanh nghiệp là nhiệm vụ chính trị hàng đầu; đảm bảo bình ổn, nhất quán, rõ ràng, minh bạch, cải thiện môi trường đầu tư thông thoáng, hỗ trợ doanh nghiệp có trọng tâm trọng điểm.

Cụ thể, ông Long đã nêu ra một số điểm được chú trọng như trong ngắn hạn, trước hết phải khẩn trương tháo gỡ khó khăn về mặt pháp lý, khơi thông nguồn lực, và các thủ tục đầu tư, triển khai dự án đầu tư công. Hiện nay, các dự án đầu tư công qua 6 tháng đầu năm vẫn đang chậm hơn so với tiến độ. 

Bên cạnh đó, một số quy định cũng đã được đưa ra trong Nghị quyết 58 đã chỉ rõ nhiệm vụ cụ thể của từng Bộ, ngành như giao cho Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội tập trung hỗ trợ doanh nghiệp tạo cơ hội ổn định việc làm cho người lao động. 

Ngoài ra ông Long cho rằng, có một số biện pháp khác đã được đưa ra để hỗ trợ doanh nghiệp trong thời điểm hiện tại như tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, đơn giản hóa thủ tục đầu tư kinh doanh; hỗ trợ tái cơ cấu lao động và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Có thể thấy, Chính phủ đã đặt việc hỗ trợ doanh nghiệp trong thời điểm khó khăn lên trọng tâm hàng đầu, các chính sách ban hành ra phải thông thoáng, rõ ràng… Tuy nhiên, theo ông Long, để thực hiện được việc này phụ thuộc rất nhiều vào các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp. trong quá trình vận hành cơ chế chính sách, bản thân các doanh nghiệp cũng cần có các kiến nghị trực tiếp về các vấn đề cần tháo gỡ trong thực tế. 

Ông Long nhấn mạnh: “Tất cả những cơ chế chính sách cần phải xuất phát từ tiếng nói của doanh nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp. Tiếng nói từ hiệp hội doanh nghiệp là tiếng nói cụ thể nhất, thực tế nhất để Chính phủ lắng nghe và thực hiện đổi mới về cơ chế chính sách”.

"Chính phủ luôn coi nhiệm vụ hàng đầu là phục hồi cho các doanh nghiệp, cũng như đồng hành cùng doanh nghiệp", ông Long cho biết, đồng thời đề nghị, các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp cần tiếp tục nâng cao tiếng nói về các cơ chế chính sách đối với doanh nghiệp của mình, tiếp tục kiến nghị về các vấn đề cần tháo gỡ và hoạt động đổi mới chính sách. 

GIẢM CHI PHÍ THỰC CHẤT CHO DOANH NGHIỆP

Dẫn số liệu từ Tổng cục Thống kê về những yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong quý 2 năm 2023, ông Phan Đức Hiếu - Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội cho biết, hiện nay, các doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn về thị trường, tài chính, vốn, cạnh tranh. Ở thời điểm khó khăn về thị trường, cạnh tranh diễn ra không chỉ giữa các doanh nghiệp trong nước mà còn có sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong khu vực. Trong những khó khăn trên, doanh nghiệp gặp khó nhất là chi phí để trang trải, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh.

ông Phan Đức Hiếu - Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội

Ông Phan Đức Hiếu - Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội

Trong bối cảnh trên, để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, cần thiết thực hiện cải cách thể chế. Nhắc đến những tác động không mong muốn của luật pháp (thể chế), ông Phan Đức Hiếu nhấn mạnh: không chỉ tạo thủ tục hành chính, thể chế còn tạo ra gánh nặng về tài chính và chi phí tuân thủ lớn.

Chẳng hạn, Dự thảo quyết định định mức tái chế vừa được bàn thảo, ngoài thủ tục hành chính, dự kiến những doanh nghiệp không tự tái chế phải nộp khoản tiền cho Quỹ bảo vệ môi trường hay dự kiến tăng mức thuế tiêu thụ đặc biệt có thể gia tăng chi phí cho doanh nghiệp. Trong khi đó, về mặt lý thuyết, một quy định pháp luật tạo ra 5 loại chi phí: chi phí thủ tục hành chính, phí và lệ phí, chi phí đầu tư tính bằng tiền, chi phí cơ hội và chi phí không chính thức.

Do vậy, “cải cách thể chế có ý nghĩa quan trọng, thậm chí quan trọng hơn cả chính sách tài khoá và tiền tệ trong ngắn hạn. Không chỉ đơn giản thủ tục hành chính mà còn hướng đến cắt giảm chi phí đầu tư phát sinh từ quy định pháp luật” - Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội Phan Đức Hiếu nhấn mạnh.

Tuy nhiên, thực hiện cải cách thể chế hiện nay đang đối mặt với 4 thách thức. Đó là cắt giảm chi phí tuân thủ từ những quy định hiện hành; lo lắng chi phí mới sẽ phát sinh từ quy định đang dự thảo và sẽ ban hành như định mức tái chế, tăng thuế tiêu thụ đặc biệt…; những chính sách toàn cầu làm gia tăng chi phí kinh doanh như thuế các - bon; các nước trong khu vực đang nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh để giảm chi phí tuân thủ, tăng lợi thế cạnh tranh.

Bối cảnh quốc tế và khu vực thay đổi, yêu cầu đặt ra ngày càng cao là tất yếu. Thực hiện cải cách thể chế vì thế ngày càng cần thiết và quan trọng. Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Công điện 644 về việc chấn chỉnh, tăng cường trách nhiệm và nâng cao hiệu quả cải cách thủ tục hành chính kịp thời tháo gỡ vướng mắc, khó khăn cho người dân và doanh nghiệp. Trong đó, có 3 điểm được nhấn mạnh: không chỉ cải cách thủ tục mà cắt giảm chi phí tuân thủ; rà soát, loại bỏ thủ tục hành chính là rào cản, cắt giảm 20% chi phí tuân thủ; xử lý dứt điểm các phản ánh của người dân và doanh nghiệp.

Để thực hiện hiệu quả Công điện 644 của Thủ tướng Chính phủ, cải cách thể chế hiệu quả và bền vững, ông Phan Đức Hiếu đề xuất 3 gợi ý:

Thứ nhất, tập trung kiểm soát quy định mới làm gia tăng chi phí. Nếu thực sự chưa cấp bách, đừng ban hành quy định mới. Nếu phải ban hành quy định thì cần có lộ trình áp dụng phù hợp quy định để doanh nghiệp có thời gian ổn định sức khoẻ và chuẩn bị phương án tuân thủ đồng thời có hỗ trợ tài chính trực tiếp cho doanh nghiệp trong tuân thủ quy định như phòng cháy chữa cháy, kiểm đếm CO2… theo đúng địa điểm, đúng nhu cầu, đảm bảo tuân thủ pháp luật.

Thứ hai, trong khó khăn, doanh nghiệp tại một số ngành nghề, lĩnh vực như bất động sản, tài chính… có nhu cầu cơ cấu lại hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, quy định hiện hành đôi khi cản trở hoạt động đó. Do đó, cần thiết nghiên cứu xem xét cơ chế nới lỏng có thời hạn, có địa chỉ để giúp doanh nghiệp thực hiện tái cơ cấu, vượt qua khó khăn. Đây là biện pháp cải cách thể chế có hiệu quả và đã được áp dụng trong thời kỳ COVID - 19

Thứ ba, về lâu dài nghiên cứu cơ chế bền vững thúc đẩy cải cách thể chế thường xuyên. Theo kinh nghiệm thế giới, cải cách thể chế nếu chỉ xuất phát đơn lẻ, bột phát từ chính các cơ quan ban hành thể chế sẽ không hiệu quả. Để thực hiện hiệu quả, nhiều nước trên thế giới đều thành lập cơ quan độc lập có thẩm quyền thuộc Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ với chức năng giám sát và thúc đẩy cải cách thể chế, được trao thẩm quyền mạnh. Trong tình hình Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới, cần nghiên cứu đề xuất thành lập cơ quan tương ứng như vậy để cải cách thể chế bền vững, hiệu quả, thường xuyên.

THỂ CHẾ CẦN MANG TÍNH CĂN CƠ, LÂU DÀI

Thông tin tại Diễn đàn, TS. Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho biết, bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước đã cho thấy những khó khăn rất nghiêm trọng trong thời gian vừa qua. Các chuyên gia kinh tế, các tổ chức quốc tế đều chung nhận định về tình trạng suy giảm đáng kể của tổng cầu.

Sau những hệ lụy của đại dịch COVID-19, diễn biến kinh tế thế giới trong giai đoạn 6 tháng đầu năm 2023 tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức, như xung đột Nga – Ukraina kéo dài; cạnh tranh địa chính trị giữa các nền kinh tế lớn; áp lực lạm phát và ưu tiên thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát cao ở nhiều quốc gia; xu hướng chuyển dịch sang phát triển bền vững kéo theo các quy định, tiêu chuẩn về môi trường, lao động ảnh hưởng đến nhập khẩu hàng hóa từ các nước đang phát triển; cùng với tác động nghiêm trọng và khó lường của biến đổi khí hậu,…

TS. Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM)

TS. Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM).

Các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế… đều cập nhật dự báo tăng trưởng kinh tế cả năm 2023 ở mức thấp, phổ biến ở mức 2-3%. Theo Statista, chỉ số Quản trị người mua hàng (PMI) toàn cầu chỉ đạt 47,1 cho các đơn xuất khẩu mới và 48,8 cho công nghiệp chế biến, chế tạo, tức là đều dưới mức 50. Theo đó, triển vọng phục hồi nhu cầu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ còn gặp nhiều khó khăn trong thời gian tới. 

Theo bà Minh, ở trong nước, những năm gần đây, dư địa của mô hình tăng trưởng truyền thống – dựa chủ yếu trên mở rộng khai thác tài nguyên thiên nhiên và lao động phổ thông – đã suy giảm đáng kể. Bối cảnh này đã đặt ra rủi ro về “bẫy thu nhập trung bình” nếu đất nước ta không sớm tìm được những động lực mới cho tăng trưởng kinh tế. Cộng hưởng với khó khăn từ suy giảm tổng cầu của thế giới, các cấu phần của tổng cầu trong nước như tiêu dùng cuối cùng, đầu tư công cũng đang gặp khó khăn không nhỏ.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong 6 tháng đầu năm, tiêu dùng cuối cùng trong 6 tháng đầu năm 2023 chỉ tăng 2,68% so với cùng kỳ năm 2022; tích lũy tài sản tương ứng tăng 1,15%,…

Và trước thực tế đã nêu, để tháo gỡ những khó khăn, mở rộng không gian kinh tế cho doanh nghiệp trong thời gian tới, cải cách thể chế là điều tiên quyết, cần có những chính sách mang tính căn cơ, lâu dài.

“Đối với những khó khăn thì chúng ta là cần những giải pháp thể chế mang tính căn cơ, lâu dài để giải quyết. Chẳng hạn đối với những vấn đề khó khăn, khách quan của thế giới, chúng ta cần có một nền kinh tế tự chủ, độc lập, tư cường để dù có những biến động nào chúng ta cũng đều có thể chủ động kiểm soát…”, TS. Trần Thị Hồng Minh chia sẻ.

Cũng theo bà Minh, liên quan đến thể chế, nếu không có thể chế tốt, cơ chế vận hành thể chế tốt, thì khó có thể tồn tại một cách hiệu quả nền kinh tế thị trường. Và trong bối cảnh hiện nay, trước mắt chúng ta phải xử lý rất nhiều câu chuyện liên quan đến thể chế.

“Trước đó Quốc hội đã thông qua một luật sửa 8 luật, đây là một bước tiến rất lớn, tuy nhiên, khi nhìn nhận trên thực tế, hiện nay vẫn còn rất nhiều vấn đề về đất đai, môi trường, xây dựng còn sự chồng chéo, mâu thuẫn, gây cản trở cho hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, những sửa đổi trước đó dường như là chưa đủ, chúng ta sẽ cần tiếp tục công tác rà soát, sửa đổi thể chế để đưa ra những đề xuất sửa đổi, hoàn thiện tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn. Luật pháp là cái nôi, là khung khổ, xương sườn của nền kinh tế, của quốc gia, nếu có sự chồng chéo, mâu thuẫn, quá trình vận hành thì sẽ gây khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp…”, bà Minh bày tỏ.

Từ thực tế đã nêu, để giải quyết những vướng mắc, bất cập mà chính sách đem lại, bà Minh cho rằng, các Hiệp hội doanh nghiệp, VCCI cần tham gia sâu hơn nữa trong việc xây dựng chính sách, cần có tiếng nói mạnh mẽ hơn nữa trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật,… nếu xử lý được câu chuyện vướng mắc, bất cập của chính sách hiện nay, sẽ là hành lang pháp lý ổn định để doanh nghiệp, nền kinh tế phát triển.

THÍCH ỨNG VÀ ĐỔI MỚI MÔ HÌNH

PGS. TS Bùi Quang Tuấn, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho biết, thế giới hiện đang ở một trong những thời điểm bất định, ba bất là bất định – bất an – bất ổn. "Bối cảnh khó khăn sẽ tạo ra cả khó khăn cũng như cơ hội", PGS. TS Bùi Quang Tuấn nhấn mạnh. Đối với cơ hội, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho biết, hiện cục diện thế giới hiện đang có những thay đổi mạnh.  

PGS. TS Bùi Quang Tuấn, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam

PGS. TS Bùi Quang Tuấn, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam

Điểm thứ hai là về yếu tố khách quan, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nhận định, các đột phá công nghiệp lần thứ 4 và chuyển đổi số là cơ hội tốt cho các nước đang phát triển đặc biệt Việt Nam là dân số trẻ, dân số đông. Việc tiếp cận nhanh vào công nghiệp lần thứ 4 là sự đột phá. Ở trong một số lĩnh vực, Việt Nam là khởi đầu giống các quốc gia khác, thậm chí nhanh hơn các quốc gia phát triển hơn nước ta. Đây là cuộc chạy đua khởi đầu giống nhau chứ không như trước đây.

"Chính vì cách mạng công nghiệp lần thứ 4 cũng dẫn đến cơ hội tốt cho các nước đi sau và đang phát triển trong đó có Việt Nam chính là quá trình toàn cầu hóa, làm không gian biên giới mờ đi đặc biệt trong lĩnh vực thông tin", ông Tuấn nhấn mạnh.

Cùng với đó, mặc dù toàn cầu hóa có bị phân mảng địa chính trị do xung đột chính trị Nga – Ukraine nhưng thế giới vẫn có xu hướng tiến triển mạnh mẽ trong khía cạnh của toàn cầu hóa. 

Về cơ hội, tạo ra nhiều ngành nghề mới, ông Tuấn ví dụ như tại Hàn Quốc, không chỉ bàn về năng lượng tái tạo mới mà còn bàn rất nhiều về ngành công nghiệp phát triển mạnh dựa trên Hydrogen, tức một ngành công nghiệp theo xu hướng xanh hóa giảm phát thải với mục tiêu phát thải dòng bằng 0. Hiện chúng ta cũng cam kết đến năm 2050 đạt được mục tiêu đó, nếu nước ta nắm bắt nhanh sẽ là cơ hội và giúp chúng ta vượt qua khó khăn như hiện nay. 

Một xu hướng cũng rất mạnh, đặc biệt sau đại dịch được ông Tuấn chỉ ra chính là xu hướng chuyển đổi xanh. Đây là một xu hướng đang định hình lại thế giới, tạo cho thế giới nhiều thách thức và cơ hội.

Tiếp theo là biến đổi khí hậu, Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu. Nhiều kịch bản như: nếu mực nước tăng 1m thì khả năng Việt Nam bị mất 40% diện tích đất canh tác. Việc biến đổi khí hậu tác động rất tiêu cực nhưng nhìn theo góc độ cơ hội thì cũng có nhiều cơ hội. Có hai hướng là giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, thứ hai là thích ứng, nếu chúng ta bị giảm diện tích đất canh tác do mực nước biển dâng thì chúng ta có thể thay đổi mô hinh kinh doanh, thay vì trồng lúa thì nuôi trồng thủy hải sản…

Một cơ hội quan trọng nữa chính là xu hướng dịch chuyển đầu tư về chuỗi giá trị. Do phân mảng địa chính trị, do xung đột chính trị và các sự ảnh hưởng từ các cường quốc, hiện nay không dựa trên các quy luật về kinh tế mà dựa trên các chủ trương của các khối để định hình lại chuỗi giá trị toàn cầu và dòng đầu tư toàn cầu. Từ đó, nhiều xu hướng chuyển dịch đầu tư nước ngoài về bản địa hoặc về khu vực xung quanh và đa dạng hóa thị trường là cơ hội lớn cho Việt Nam. 

Ngoài ra, Việt Nam còn ở trong vị trí năng động và có bước chuyển mạnh, đặc biệt là trong chuyển đổi số. Nước ta là một trong những nước có triển vọng và năng động nhất khu vực Đông Nam Á. Nếu biết khai thác vị trí khu vực thì sẽ có cơ hội tốt để thu hút nguồn lực về công nghệ, mở rộng thị trường, thậm chí là nguồn nhân lực để vươn lên nâng cao được năng lực cạnh tranh.

Ông Tuấn cho biết tăng trưởng xanh đang đặt ra vấn đề rất lớn, bắt đầu chuyển đổi mô hình sản xuất kinh doanh theo hướng kinh tế tuần hoàn, theo hướng giảm nhẹ phát thải, theo hướng xanh hóa sản xuất, đặc biệt đặt ra những vấn đề liên quan đến xanh hóa tiêu dùng, tức tiêu dùng bền vững. "Đây là sức ép để các doanh nghiệp phải thay đổi sản phẩm để đáp ứng nhu cầu xanh hóa đó. Nếu chúng ta đáp ứng được yêu cầu đấy thì có cơ hội xuất khẩu sang các thị trường có nhu cầu cao về sản phẩm xanh hóa", Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nhấn mạnh.

Ngoài ra còn có xu hướng xanh hóa mô hình kinh doanh kết hợp với kinh tế số. Việc áp dụng này sẽ nắm bắt được xu hướng và khai thác được lợi thế về kinh tế quy mô cơ cấu dân số vàng.

Chia sẻ về những giải pháp của doanh nghiệp, PGS TS Bùi Quang Tuấn nhấn mạnh việc khơi thông nguồn lực. Quan trọng nhất là doanh nghiệp phải có các phương án khác nhau chủ động với những yếu tố bất ổn từ bên ngoài. Thứ hai cần chủ động xây dựng kế hoạch về xử lý với những trường hợp bất ổn.

Trong bối cảnh nhu cầu của doanh nghiệp cao nhưng năng lực tiếp cận vốn thì thấp, ông Bùi Quang Tuấn cho rằng doanh nghiệp phải quản trị nguồn lực tốt hơn và có phương án thay thế các nguồn lực từ tín dụng, có phương án cắt giảm chi phí.

Về dài hạn, doanh nghiệp cần đổi mới mô hình kinh doanh theo hướng quản trị hiện đại, số hoá. “Xu hướng xanh hoá cũng là cơ hội để doanh nghiệp tham gia, nắm bắt đầy đủ để tham gia vào thị trường châu Âu và những xu hướng về hỗ trợ cho chuyển đổi năng lượng, có chiến lược phù hợp”, PGS TS Bùi Quang Tuấn nhấn mạnh và khẳng định thích ứng là yếu tố quan trọng.

ĐỐI DIỆN VÀ VƯỢT BÃO

Mở đầu phiên thảo luận với chủ đề Đối diện và vượt bão, ông Nguyễn Linh Anh, Phó TBT phụ trách Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp cho biết, với tình trạng khó khăn thực tiễn của cộng đồng doanh nghiệp như hiện nay, rất mong các đại diện doanh nghiệp tập trung đề xuất kiến nghị các giải pháp, đề xuất để tháo gỡ những điểm nghẽn cục bộ nhất của từng ngành nghề, lĩnh vực của doanh nghiệp cụ thể.  

Ông Nguyễn Linh Anh, Phó TBT phụ trách Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp

Ông Nguyễn Linh Anh - Phó Tổng Biên tập phụ trách Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp.

Từ trái qua phải:

Từ trái qua phải: Ông Nguyễn Linh Anh – Phó Tổng Biên tập phụ trách Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp; TS Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM); PGS, TS Bùi Quang Tuấn, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam.

Phát biểu đề dẫn phiên thảo luận “đối diện và vượt bão” tại Diễn đàn "Phát triển kinh doanh: Tháo gỡ khó khăn tạo không gian phát triển mới cho doanh nghiệp" do Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức, ông Hoàng Văn Cường, Đại biểu Quốc hội khoá XV, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đánh giá, hiện nay, doanh nghiệp gặp khó khăn khá toàn diện, tức khó khăn chung tới các nhóm ngành, không riêng nhóm doanh nghiệp nào. 

Ông Hoàng Văn Cường, Đại biểu Quốc hội khoá XV, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Ông Hoàng Văn Cường, Đại biểu Quốc hội khoá XV, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Phân tích về những khó khăn của doanh nghiệp, ông Cường đặt vấn đề: trong khi đầu vào không quá khó khăn như giai đoạn trước. Vậy vấn đề khó khăn là gì?

Ông Cường nhận đinh, chính sách tài khoá hiện được doanh nghiệp đồng tình nhưng ngoài ra các phần như bảo hiểm xã hội, công đoàn… doanh nghiệp phải đóng hơn 30% cho các chi phí này là gánh nặng, làm doanh nghiệp phải sa thải bớt lao động trong bối cảnh khó khăn. Do đó, ông Cường nhấn mạnh chúng ta phải phân tích kỹ và tính đến giãn hoãn, thậm chí cắt giảm các chi phí này.

Ông Cường cho rằng cần nới lỏng các vấn đề về quản lý. “Khi bên ngoài khó khăn chúng ta phải nới lỏng các điều kiện bên trong. Tôi cảm nhận thời gian vừa qua, trong bối cảnh thế giới bên ngoài khó bên trong cũng “thắt”. Nhiều vấn đề kiểm soát khiến doanh nghiệp không biết phải làm sao”, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân chia sẻ đồng thời nhận định vấn đề nới lỏng bên trong là rất cần thiết. Đúng là phải kiểm soát các quy chuẩn nhưng trong một mức nào đó.

Một vấn đề nữa, ông Cường cho rằng cần bàn thảo là vấn đề lãi suất, NHNN đã 4 lần hạ lãi suất, tuy nhiên đã thực sự là thấp đối với doanh nghiệp hay chưa? Chính sách lãi suất cần tính đến, còn dư địa trong ngân hàng để hạ lãi suất cho khu vực doanh nghiệp ưu tiên. Ông Cường nhận định, chính sách tài khoá cần hướng sang hỗ trợ tốt hơn cho giảm lãi suất vay, tạo sức mạnh hỗ trợ doanh nghiệp.

Với bản thân doanh nghiệp ông Cường lưu ý phải “tự cứu mình” trong bối cảnh khó khăn. Doanh nghiệp phải lựa chọn, lược bỏ những điểm không phải thể mạnh, sử dụng những quy trình, đổi mới mô hình, đặc biệt là chuyển đổi xanh. Vị Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân khẳng định đây là cơ hội để lột xác tự cứu mình. Ông cũng nhấn mạnh tới vấn đề liên kết của các doanh nghiệp. Ví dụ như liên kết trong lĩnh vực du lịch- dịch vụ-hàng không hay nông nghiệp….

Điểm cuối cùng ông Cường lưu ý là vấn đề tự chủ của nền kinh tế. “Chúng ta chưa có sự độc lập của thị trường, các quốc gia đều có các tập đoàn lớn trong nước làm trụ cột của nền kinh tế. Chúng ta cần các doanh nghiệp trụ cột như vậy, để chúng ta có các ngành chủ lực do doanh nghiệp Việt dẫn dắt”, ông Hoàng Văn Cường nhấn mạnh.

Trao đổi tại phiên thảo luận, ông Cao Tiến Đoan, Chủ tịch HHDN tỉnh Thanh Hóa cho biết, chưa khi nào cộng đồng doanh nghiệp phải gồng mình đối mặt với nhiều thách thức như hiện nay. Nguyên nhân những khó khăn của doanh nghiệp đến từ nhiều góc độ. 

 ông Cao Tiến Đoan, Chủ tịch HHDN tỉnh Thanh Hóa

Ông Cao Tiến Đoan, Chủ tịch HHDN tỉnh Thanh Hóa.

Sau 2 năm ảnh hưởng nặng nề do dịch COVID-19, các doanh nghiệp bắt đầu phục hồi ngay lập tức vướng phải những quy định về luật phòng cháy chữa cháy, tình trạng mất điện đột ngột và liên tục. Bên cạnh đó, do tình hình kinh tế chính trị thế giới có diễn biến phức tạp, lạm phát tăng cao, giá nguyên liệu đầu vào khan hiếm, đơn hàng giảm do tổng cầu thế giới và trong nước suy giảm.

Mặt khác, phần lớn các doanh nghiệp phải đối mặt với những bất cập như xu hướng cải cách hành chính có phần bị chững lại; gần đây xuất hiện tình trạng một số bộ phận công chức nhà nước có dấu hiệu né tránh, đùn đẩy công viêc… đẩy doanh nghiệp vào tình cảnh khó khăn. 

Tuy nhiên, ông Đoan nhấn mạnh, cộng đồng doanh nghiệp luôn nhận được sự quan tâm kịp thời của Đảng và nhà nước, tiếng nói từ doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp luôn được lắng nghe. Để đẩy mạnh công tác tháo gỡ khó khăn trong thời gian tới, ông Đoan đã nêu một số kiến nghị bao gồm: 

Thứ nhất, Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, loại bỏ các quy định không phù hợp. Mạnh dạn có những giải pháp có tính đột phá, tháo gỡ những điểm nghẽn, ban hành các chính sách thực sự phù hợp hiệu quả, khắc phục tình trạng chậm triển khai. Động viên, khích lệ những cán bộ có trách nhiệm, dám nghĩ dám làm.

Thứ hai, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo Bộ ngành trung ương và địa phương tiếp tục thực hiện cải cách môi trường kinh doanh, hạn chế kiểm tra thanh tra.

Thứ ba, đề nghị Ngân hàng nhà nước cần có chính sách tín dụng ưu đãi cho những doanh nghiệp khẳng định được uy tín, thương hiệu. Đồng thời tăng cường chỉ đạo giám sát hệ thống ngân hàng thương mại tại địa phương, thực hiện nghiêm việc giãn nợ, giãn thời gian trả lãi theo đúng tinh thần Nghị quyết 50 ban hành ngày 8/4/2023 và Nghị quyết 59 ngày 23/4/2023 của Chính phủ. 

Thứ tư, trong thời gian Chính phủ đang giao các Bộ ngành tham mưu chỉnh sửa các quy định phòng cháy chữa cháy mới, đề nghị xem xét tạm dừng phạt phòng cháy chữa cháy cho doanh nghiệp.

Thứ năm là cần có giải pháp tổng thể đảm bảo đủ nguồn điện, xăng dầu.

“Cộng đồng doanh nghiệp trong nước nói chung và doanh nghiệp Thanh Hóa nói riêng mong muốn các Bộ ngành Trung ương và địa phương tiếp tục song hành cùng doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phục hồi nhanh nhất. Cộng đồng doanh cam kết sẽ nỗ lực hết mình, thượng tôn pháp luật, cùng đồng hành với cả hệ thống chính trị, đoàn kết, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, góp vào sự phát triển của đất nước” – ông nhấn mạnh.

Ông Nguyễn Quốc Hiệp – Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam cho rằng, hiện nay, bất động sản đang chững lại kéo theo các chuyên ngành kinh tế liên quan cũng rất khó khăn. 6 tháng đầu năm nay, theo Hiệp hội Thép, tiêu thụ thép giảm 20%, xi măng giảm 10% dù trong những năm gần đây, Chính phủ đẩy mạnh đầu tư công, đặc biệt là các dự án hạ tầng kỹ thuật nên còn kéo lại sự cân bằng phần nào cho thị trường.

Ông Nguyễn Quốc Hiệp – Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam

Ông Nguyễn Quốc Hiệp – Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam

Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư ngoài ngân sách đang sụt giảm, nhất là trong lĩnh vực bất động sản. Số lượng dự án triển khai trong năm 2023 giảm cả về số lượng và quy mô. 6 tháng đầu năm, vốn đầu tư nhà nước tăng 12,6% nhưng vốn tư nhân chỉ tăng 2,4% và khu vực FDI tăng 3,8%.

Nguyên nhân của tình trạng này, theo đánh giá của các chuyên gia, chủ yếu là pháp lý vướng mắc không được giải quyết được do thiếu đồng bộ, chồng chéo, xung đột của hệ thống văn bản pháp luật. Bất cập này chưa có giải pháp khắc phục triệt để.

Vì vậy, Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam cho rằng cần có một cơ quan chuyên trách đủ chuyên sâu của Quốc hội rà soát văn bản pháp lý trước khi trình Quốc hội để gạt bỏ những chồng chéo xung đột trong các luật, nhất là giữa Luật Đất đai và các luật khác đang chuẩn bị sửa đổi trong dịp này. Ngoài ra, các cơ quan soạn thảo cần lắng nghe, tiếp thu các đề đạt, kiến nghị, thắc mắc của các hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp trong quá trình xây dựng luật để hoàn chỉnh khung pháp lý, thúc đẩy, động viên các nguồn lực xã hội vào đầu tư phát triển, tạo công ăn việc làm và tăng trưởng kinh tế.

Bên cạnh đó, ông Nguyễn Quốc Hiệp đề xuất chính sách cơ chế để khuyến khích kích cầu hợp lý cho toàn bộ nền kinh tế. Theo Chủ Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam, Chính phủ đã rất quyết liệt điều hành, chỉ đạo hạ lãi suất cho vay về ngưỡng 8%/năm và các giải pháp khoan sức dân như giảm thuế VAT 2%, giảm phí kiểm định phương tiện cơ giới, tăng lương… nhưng cần có thêm những giải pháp cụ thể về miễn giảm, giãn hoãn một số loại thuế phí, nới lỏng chính sách tài khoá, kích cầu tiêu dùng mạnh hơn nữa để tạo tâm lý cho thị trường.

Cuối cùng, Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam nhấn mạnh đến việc kiểm tra, rà soát tháo bỏ mọi rào cản trong môi trường kinh doanh hiện còn rất nặng nề. Theo Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, thời điểm hiện nay khi thực hiện rà soát, đánh giá cải cách về điều kiện kinh doanh so với năm 2019 không có chuyển biến tốt hơn.

Các doanh nghiệp bị ách tắc, phiền hà bởi thủ tục hành nghề đăng ký kinh doanh có điều kiện, nhiều thủ tục phát sinh một cách tự phát, thậm chí một số sở ngành địa phương cũng đưa ra những quy định cho các doanh nghiệp phải thực hiện.Những vướng mắc này, thậm chí làm không ít nhà đầu tư nước ngoài e ngại.

Để tháo bỏ những rào cản trong môi trường kinh doanh, cần sớm rà soát lại các quy định đang áp dụng ở mọi ngành kinh tế và kiên quyết cắt bỏ các thủ tục hành chính, nhất là phải quy định cấp thẩm quyền nào mới được đưa ra các quy định để yêu cầu doanh nghiệp thực hiện.

Phát biểu tại Diễn đàn, ông Ngô Sỹ Hoài - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST) cho rằng, trong những năm qua, mặc dù ngành công nghiệp gỗ đã từng đặt ra mục tiêu đến 2025 đạt 20 tỷ USD và trở thành quốc gia xuất khẩu lớn sau Trung Quốc, tuy nhiên, những năm gần đây, chúng tôi đã và đang gặp phải không ít khó khăn vướng mắc, khi thực tế cho thấy, sản lượng xuất khẩu của năm nay so với các năm trước giảm đáng kể.

Ông Ngô Sỹ Hoài - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST)

Ông Ngô Sỹ Hoài - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST)

Có nhiều nguyên nhân dân đến các khó khăn hiện nay của ngành gỗ nhưng một trong số đó xuất phát từ việc thị trường mỹ chiếm 55% tổng xuất khẩu, nhưng quốc gia này lại áp dụng rất nhiều phương pháp bảo hộ thương mại, khởi xướng nhiều cuộc điều tra gỗ dán và tủ bếp, nên dẫn đến hiện trạng xuất khẩu giảm.

So với các ngành khác thì yêu cầu về nguyên liệu ngày một cao, đặt ra rất nhiều rào cản về môi trường cũng là những khó khan, thách thức mà ngành gỗ đang gặp phải, chúng ta đã ký hiệp định với EU với hàng loạt quy định ngặt nghèo như: không gây mất rừng,…

Từ những khó khăn, vướng mắc đã nêu, các doanh nghiệp trong Hiệp hội mong muốn công tác cải cách thể chế sẽ được chú trọng hơn nữa, trong đó, vấn đề phòng cháy chữa cháy cần sớm được giải quyết, Hiệp hội đề xuất, trong bối cảnh hiện nay, không thực hiện các quy định mới về phòng cháy chữa cháy,… bởi doanh nghiệp gỗ sẽ không xuất khẩu được nếu không đáp ứng được yêu cầu này.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp xuất khẩu cũng mong muốn, nguồn vốn vay ngoại tệ có thể giảm xuống 3,8% để hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua khó khăn, thách thức, tăng tính cạnh tranh. Đặc biệt, cần sớm tiến hành việc hoàn thuế GTGT cho các doanh nghiệp ngành gỗ khi số tiền cần hoàn là rất lớn, đồng thời đưa các doanh nghiệp ngành gỗ ra khỏi luồng doanh nghiệp rủi ro cao trong hoàn thuế, bởi nguồn nguyên liệu của các doanh nghiệp để đáp ứng theo các yêu cầu của cơ quan thuế là không thể...

Ông Mạc Quốc Anh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP Hà Nội (Hanoisme) đề xuất, tăng thời hạn thêm cho khác khoản vay đến hạn, hỗ trợ lãi suất; Giảm các khoản vay cũ quý III, quý IV năm 2022; Tư vấn về giải pháp vượt qua giai đoạn khó khăn do suy thoái kinh tế và đối thủ cạnh tranh. Đồng thời tạo cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực đấu thầu tham gia các dự án của nhà nước, hoặc có vốn ngân sách đầu tư.

Ông Mạc Quốc Anh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP Hà Nội (Hanoisme)

Ông Mạc Quốc Anh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP Hà Nội (Hanoisme).

Ông đề xuất, doanh nghiệp cần hỗ trợ thuế nhập khẩu 0% cho hàng cần nhập khẩu (Spunlace non-woven fabric). Giảm thuế nhập khẩu cho mặt hàng vải không dệt sớm theo lộ trình giảm thuế theo cam kết 4 năm/lần. 

Phó Chủ tịch Hanoisme mong muốn vay với lãi suất thấp 5-7% như các doanh nghiệp sản xuất. Doanh nghiệp mong muốn được nhà nước hỗ trợ về mặt bất động sản (nhà xưởng, kho,…) để các doanh nghiệp Việt Nam có thể phát triển được trong lĩnh vực sản xuất.

Cho biết hiện vấn đề hoàn thuế VAT rất khó, ông Mạc Quốc Anh nhấn mạnh cần có cơ chế cho các doanh nghiệp làm dịch vụ xuất nhập khẩu để chi phí xuất nhập hàng giảm xuống.

Ông Nguyễn Chỉ Sáng, Phó Chủ tịch Hiệp hội DN Cơ khí Việt Nam (VAMI) cho biết, với mục đích xây dựng cơ chế, chính sách cho ngành cơ khí, đơn hàng cho ngành cơ khí tạm chia thành hai loại: loại thứ nhất là đơn hàng cho sản phẩm chủ lực, thông thường được đầu tư bởi những tổng công ty, tập đoàn lớn, phần lớn sử dụng vốn đầu tư công. Và loại hai là các đơn hàng thông dụng như đồ gia dụng, các chi tiết, sản phẩm cơ khí tiêu chuẩn, loại này có số lượng rất nhiều nhưng giá trị cho một sản phẩm thường không lớn. 

Ông Nguyễn Chỉ Sáng, Phó Chủ tịch Hiệp hội DN Cơ khí Việt Nam (VAMI)

Ông Nguyễn Chỉ Sáng, Phó Chủ tịch Hiệp hội DN Cơ khí Việt Nam (VAMI

Với mỗi loại sản phẩm chúng ta có cách tiếp cận về cơ chế chính sách khác nhau. Ví dụ sản phẩm loại thứ nhất đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn cho mỗi dự án, việc xây dựng cũng đòi hỏi sự phê duyệt chặt chẽ của nhà quản lý để đảm bảo chất lượng cũng như an ninh quốc phòng, việc thu xếp vốn, mối quan hệ nhà nước… rất nhiều yếu tố đòi hỏi sự cân nhắc, can thiệp, phê duyệt của nhà nước, do vậy quan điểm phát triển của nhà nước ảnh hưởng có tính chất quyết định đến các sản phẩm loại này. 

Loại sản phẩm thứ hai đa phần do các công ty tư nhân trong, ngoài nước sản xuất, khách hàng là các hộ gia đình hay các công ty nhỏ, hoặc các sản phẩm để tham gia vào chuỗi cung toàn cầu, trong điều kiện Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, việc can thiệp bằng cơ chế vào mảng sản phẩm này là rất hạn chế. 

Về quan điểm tạo dựng thị trường, ông Sáng cho rằng không “kiến tạo” công việc bằng mọi giá mà cân nhắc đến lợi ích dài hạn, ngắn hạn của cả nhà nước, nhà đầu tư và và nhà thầu (doanh nghiệp cơ khí) trong đó đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu. 

Bên cạnh đó, chỉ bảo hộ thị trường cho các ngành sản xuất những sản phẩm, mảng công việc có nhu cầu thị trường lớn, ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế, đến doanh nghiệp cũng như an ninh quốc phòng. Với những hàng hóa thông dụng có thể có nhưng hỗ trợ cần thiết nhưng không bảo hộ. 

Để ngành cơ khí phát triển và đáp ứng được 50% - 60% nhu cầu thị trường 800 tỷ USD từ nay đến năm 2045 đồng thời gia tăng thị phần cho mặt hàng thông dụng cũng như tham gia sâu hơn vào chuỗi cung toàn cầu, ông Sáng kiến nghị: cần xây dựng chiến lược tổng thể phát triển các ngành công nghiệp, đặc biệt các ngành có giá trị đầu tư lớn trong chiến lược phát triển của Quốc gia. 

Tiếp tục chương trình “công nghiệp hỗ trợ” với những cơ chế chính sách bổ xung và cập nhật cần thiết.  

Cụ thể hóa Chiến lược phát triển cơ khí 319/QĐ-TTg xây dựng Nghị định về phát triển cơ khí giai đoạn tới. 

Bên cạnh đó, ông Sáng cũng đề nghị, Bộ Công Thương sẽ có những tư vấn cho Chính phủ ban hành những cơ chế, chính sách cụ thể để các doanh nghiệp có định hướng trong đầu tư, để ngành cơ khí có thể phát triển đáp ứng đươc yêu cầu về phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nước.  

Ông Nguyễn Quốc Hùng – Phó Chủ tịch Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho biết: Do tác động của dịch bệnh COVID - 19 và suy thoái kinh tế, đến nay nguồn lực của doanh nghiệp cạn kiệt. Tình trạng thiếu đơn hàng đã và đang ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không chỉ tại Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới.

Doanh nghiệp khó khăn cũng ảnh hưởng tới hoạt động của các ngân hàng. Tốc độ huy động vốn của ngân hàng trong những tháng đầu năm 2023 tăng 4%; tăng trưởng tín dụng chỉ hơn 4,7%, thấp nhất trong 13 năm qua.

Ông Nguyễn Quốc Hùng – Phó Chủ tịch Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam

Ông Nguyễn Quốc Hùng – Phó Chủ tịch Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam

Trong khi đó, lãi suất liên tục yêu cầu giảm. Những tháng đầu năm FED liên tục tăng lãi suất nhưng Ngân hàng Nhà nước đã 4 lần giảm lãi suất. Vừa rồi, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam tiếp tục kêu gọi các ngân hàng giảm lãi suất để hỗ trợ doanh nghiệp.

Tuy nhiên, giảm lãi suất có phải là vấn đề cốt lỗi không? Giảm lãi suất nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng đáp ứng đủ điều kiện vay ngân hàng như tài sản đảm bảo không đủ, kinh doanh thua lỗ, cơ cấu nợ, điều chỉnh trả nợ để được vay tiếp hoặc không quản lý được dòng tiền. Ngân hàng không có đủ cơ sở đảm bảo để cho vay tiếp.

Trong bối cảnh đó, chúng tôi có một số kiến nghị liên quan đến cơ chế chính sách. Hiệp hội đã tổng hợp kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước xem xét, rà soát lại xem nội dung nào cần thiết thì có thể bổ sung và kéo dài. Những kiến nghị đưa ra rất mạnh nhưng phải phù hợp với thực tiễn điều kiện, hoàn cảnh của từng tổ chức tín dụng và hệ thống ngân hàng.

Bên cạnh đó, muốn tháo gỡ khó khăn phải nhìn từ thực trạng của doanh nghiệp.

Thứ nhất, kiến nghị với Chính phủ cần đẩy mạnh cải cách thể chế để giảm chi phí thực thi của doanh nghiệp. Đây là một giải pháp hay và cần phải tháo gỡ.

Thứ hai, các bộ ngành cần đánh giá thực trạng của nền kinh tế, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và cần thiết phải đề xuất Quốc hội ban hành Nghị quyết tháo gỡ khó khăn như đã từng thực hiện trong giai đoạn COVID - 19.

Thứ ba, đẩy mạnh đầu tư công để tạo đà phát triển; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính để tháo gỡ khó khăn cho các dự án tại các địa phương, nhất là các dự án bất động sản

Thứ tư, chúng ta đã có Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; Quỹ Bảo lãnh doanh nghiệp nhỏ và vừa tại 24 địa phương, Quỹ Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trực thuộc Bộ Kế hoạch Đầu tư. Đây là thời điểm cần có sự hỗ trợ về vốn từ các quỹ trên cho doanh nghiệp nhưng thực tế, quỹ hỗ trợ thế nào, hiệu quả ra sao, có bất cập khó khăn gì trong hỗ trợ cần được làm rõ để các doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp khởi nghiệp cũng có thể tiếp cận.

Thứ năm, hoàn thiện chính sách hoàn thuế VAT mà doanh nghiệp kêu rất nhiều và cần thực hiện khẩn trương càng sớm càng tốt

Cuối cùng là thị trường vốn hiện yếu khi thị trường trái phiếu, thị trường bất động sản trầm lắng. Niềm tin của những người đầu tư vào trái phiếu thấp vì vậy cần có cơ chế chính sách đẩy mạnh tăng cường thị trường vốn, tạo niềm tin cho thị trường phát triển, giảm áp lực vào nguồn vốn ngân hàng. Nguồn vốn ngân hàng là nguồn vốn bổ sung lưu động, còn nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn phải từ thị trường vốn nên cần đẩy mạnh và mở rộng thị trường vốn.

Ông Nguyễn Phước Hải - Phó Chủ tịch cấp cao Tập đoàn Công nghệ CMC cho biết, trong năm vừa qua, nhiều thách thức lớn và khó lường xảy ra đã tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế. Riêng đối với ngành Công nghệ thông tin và viễn thông, có một số rào cản gây trở ngại đối với sự cạnh tranh và lớn mạnh của ngành.

Ông Nguyễn Phước Hải đánh giá có 2 vấn đề chính mà nhiều doanh nghiệp hiện nay đang phải đối mặt: Một là việc tập trung nghiên cứu và phát triển công nghệ mới: Trước tình hình kinh tế suy giảm, thị trường cạnh tranh, doanh số của nhiều doanh nghiệp bị ảnh hưởng nghiêm trọng… Việc đầu tư nghiên cứu và phát triển công nghệ mới tại các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Riêng đối với ngành CNTT, công nghệ mới là yếu tố tiên quyết cho sự thành công của mọi sản phẩm. Điều này khiến khả năng sáng tạo các giải pháp tiên tiến bị hạn chế, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thậm chí, chúng ta rất dễ bỏ lỡ hoặc đi chậm một bước so với thế giới trong các xu hướng công nghệ quan trọng như: AI, IoT, VR, Blockchain...

Ông Nguyễn Phước Hải - Phó Chủ tịch cấp cao Tập đoàn Công nghệ CMC cho biết

Ông Nguyễn Phước Hải - Phó Chủ tịch cấp cao Tập đoàn Công nghệ CMC

Hai là đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao: Trong tháng 1/2023, các ông lớn công nghệ trên thế giới là: Alphabet (công ty mẹ của Google), Microsoft, Amazon và IBM đã sa thải tổng cộng gần 44.000 nhân sự. Tại Việt Nam, tình trạng thất nghiệp và cắt giảm lao động đang trở thành nguy cơ đối với nhiều doanh nghiệp. Theo công bố tình hình lao động của Tổng cục Thống kê, sang quý I/2023, các doanh nghiệp trên cả nước sa thải có gần 149 nghìn lao động. Đối với các doanh nghiệp lớn, hoạt động tuyển dụng nhân sự mới được siết chặt. Thay vào đó là “cơn khát” nhân sự có trình độ chuyên môn cao. Và việc phải đào tạo nhân lực có chuyên môn sâu, có trình độ chuyên ngành tốt sẽ là mục tiêu chung mà mọi doanh nghiệp CNTT cần hướng tới. Bởi nhân lực chất lượng cao là nền tảng cốt lõi cho sự tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp.

Đối với hai khó khăn trên, ông Nguyễn Phước Hải cho rằng để tìm ra giải pháp tháo gỡ tôi cho rằng chúng ta cần có những chiến lược. Đầu tiên, cần có sự tập trung, chọn lọc vào công nghệ mũi nhọn. Thay vì nghiên cứu và phát triển đa lĩnh vực, các doanh nghiệp nên ưu tiên lựa chọn sản phẩm công nghệ thế mạnh để nghiên cứu và phát triển. Phát triển sản phẩm công nghệ mới, chất lượng và có tính ứng dụng cao là hoạt động sống còn của doanh nghiệp.

Trong giai đoạn hiện nay, "tôi cho rằng tập trung đầu tư vào các sản phẩm cốt lõi định hướng Make in Vietnam là một chiến lược cần thiết. Tại CMC, chúng tôi đã cho ra đời Viện Nghiên cứu Ứng dụng Công nghệ CMC ATI. Đây là nòng cốt sáng tạo công nghệ lõi, đồng thời sáng tạo ra nguồn nhân lực nghiên cứu ứng dụng chất lượng cao cho ngành. Cho đến nay, Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Công nghệ CMC ATI đã phát triển, hoàn thiện được 11 sản phẩm Công nghệ Make in Vietnam – Made by CMC có giá trị ứng dụng cao, như:  Giải pháp nhận diện khuôn mặt CIVAMS.FACE, VOICE (Speech-to-text & Text-to-speech), Nhận diện ký tự quang học - OCR, Trợ lý ảo - Chatbot, Truy xuất nguồn gốc - GTRUST, Lắng nghe mạng xã hội Social listening, C-HR RESUME-PARSING..." - ông Hải nói.

Thứ hai, là cần chú trọng đào tạo nhân sự chất lượng cao. Các doanh nghiệp cần tăng cường sắp xếp nhân sự, dành ngân sách kinh phí và quỹ thời gian hợp lý để đào tạo kỹ năng chuyên môn cho CBNV. Tại CMC, chương trình đào tạo nhân sự chất lượng cao được cập nhật thường xuyên. Tính riêng năm 2022: Tổng số giờ đào tạo trong năm đạt 48,025 giờ đào tạo. Trong đó, chương trình cho Quản lý – Lãnh đạo: 13,951 giờ; chương trình đào tạo cho Chuyên gia, chuyên viên, nhân viên là: 34,074 giờ. Số giờ đào tạo trung bình cho 1 nhân sự/năm: 8 giờ/năm. Các khóa học trong nội dung đào tạo gồm: Chương trình phát triển năng lực cho Quản lý và Lãnh đạo (Kỹ năng quản lý cơ bản, Kỹ năng quản lý nâng cao). Các chương trình chuyên môn nghiệp vụ về Công nghệ, Lập trình, Tài chính, Nhân sự, Kỹ thuật, Kinh doanh… Bên cạnh các hoạt động đào tạo trên lớp, Tập đoàn CMC còn chú trọng đào tạo, kèm cặp hướng dẫn, huấn luyện nhân viên để từng bước nâng cao chuyên môn nghiệp vụ và năng lực nhân sự, đáp ứng mục tiêu của tổ chức.

"Nhìn vào tình hình hiện tại, chúng ta không thể phủ nhận rằng ngành công nghệ thông tin và viễn thông đang đối mặt với những thách thức lớn. Tuy nhiên, tôi tin rằng chúng ta có thể đóng góp vào quá trình tháo gỡ khó khăn để tạo ra không gian phát triển mới trong thời gian tới" - ông Hải nhấn mạnh.

Ông Lê Hùng Cường, Phó Tổng giám đốc FPT Digital cho biết, chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ tại Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Trên thực tế, đa phần các doanh nghiệp Việt Nam đã từng bước thực hiện chuyển đổi số.

Ông Lê Hùng Cường, Phó Tổng giám đốc FPT Digital

Ông Lê Hùng Cường, Phó Tổng giám đốc FPT Digital

Hiện nay, các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số với các mức độ khác nhau. Do đó, ông Cường cho rằng, khi thực hành chuyển đổi số, các doanh nghiệp cần vững tin vào hành trình này. Chuyển đổi số là để nâng cao năng lực và khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Do đó, khi các doanh nghiệp gặp các vấn đề về chuyển đổi số, cần xác định các vấn đề cấp bách cần giải quyết trước tiên và sau đó là xây dựng chiến lược dài hạn cho chuyển đổi số.

Bên cạnh đó, ông Cường cũng mong đợi Chính phủ ban hành khung chuyển đổi số, hướng dẫn về chuyển đổi số để các doanh nghiệp có thể hiểu và tham gia trực tiếp vào các chương trình chuyển đổi số một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, Chính phủ cần có các nguồn lực tài trợ để giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tiếp cận chuyển đổi số một cách hiệu quả.

Phát biểu kết luận Diễn đàn, TS Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho biết, tại Diễn đàn hôm nay, đại diện các cơ quan quản lý, chuyên gia đã có cơ hội cung cấp thông tin liên quan đến cơ chế chính sách, cải cách thể chế, các giải pháp trong thời gian tới để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tạo điều kiện cho doanh nghiệp vượt khó. Chúng ta cũng lắng nghe trực tiếp các ý kiến của đại diện Hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp trao đổi về những khó khăn, kiến nghị. Các ý kiến này được VCCI, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổng hợp, báo cáo các cơ quan có thẩm quyền để tháo gỡ giải quyết.

TS Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương

TS Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương.

Là cơ quan giúp Bộ Kế hoạch Đầu tư và Chính phủ trong cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương tiếp nhận các ý kiến quý báu của các hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp, chuyên gia trong việc báo cáo Chính phủ trong thời gian gần nhất về các nội dung liên quan Dự thảo Nghị quyết về môi trường kinh doanh, Báo cáo rà soát liên quan đến điều kiện kinh doanh. "Chúng tôi có đề xuất cụ thể thành lập tổ công tác rà soát, giải quyết từng vấn đề cụ thể, có giải pháp giải quyết ngay và kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp" - bà Minh nhấn mạnh

THOẢ HẰNG - HẠNH CẨM - PHƯƠNG HIỀN - TUẤN NGỌC - VI ANH