Nhận diện những nền kinh tế trong CPTPP (Bài 1)
CPTPP giờ không còn là nơi để dự báo, cần nhận diện càng rõ càng tốt 10 nền kinh tế còn lại để có đối sách phù hợp nhằm đạt được hai tiêu chí "Toàn diện" và "Tiến bộ".
Năm 2018, sự kiện 11 nền kinh tế hai bên bờ Thái Bình Dương thông qua Hiệp định đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được nhiều tờ báo lớn trong nước và quốc tế lựa chọn là sự kiện kinh tế tiêu biểu của năm.
Điều đó phần nào chứng tỏ CPTPP được dự báo có sức ảnh hưởng không hề nhỏ đến kinh tế thế giới trong thời gian tới. Những quốc gia là thành viên - dĩ nhiên có lý do để vui mừng, ngược lại những nền kinh tế ngoài khối sẽ gặp ít nhiều trắc trở khi phải đối mặt với một liên minh được thiết kế luật chơi riêng chặt chẽ, trong đó có những “gã khổng lồ”.
Có thể bạn quan tâm
CPTPP sẽ tạo ra một thế hệ doanh nghiệp... bình đẳng đối diện với thế giới
13:10, 30/12/2018
CPTPP chính thức có hiệu lực: 100% dòng thuế sẽ về 0% sau 7 - 10 năm
13:15, 30/12/2018
CPTPP lợi hại ra sao với Việt Nam? Mấy năm qua đã được phân tích nhận định rất nhiều, đương nhiên, mức độ sát thực thế nào cần có thời gian để chứng minh và còn phụ thuộc vào thái độ của chúng ta.
Nhưng có một nguyên tắc bất di bất dịch, luôn đúng trong mọi trường hợp: “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”. Bởi vì, 11 nền kinh tế trong CPTPP vừa là đối tác vừa là đối thủ một cách trực diện chứ không mơ hồ.
CPTPP đã có hiệu lực từ hôm nay (30/12) ở 6 quốc gia. Về lâu dài, để cạnh tranh “Toàn diện” và “Tiến bộ” như tên gọi. Việt Nam - ít nhất có 10 chiến lược riêng biệt với 10 thành viên còn lại, vì mỗi thành viên/nền kinh tế có những đặc trưng khác nhau.
1. Australia
Được coi là hòn đảo lớn nhất thế giới, Australia là quốc gia duy nhất trên trái đất được thừa nhận là 1 châu lục riêng biệt! Đây là quê hương của những người từ 200 quốc gia khác nhau. Đa dạng văn hóa ở nước này chính là một thách thức đầu tiên với các thành viên trong thực hiện cam kết CPTPP.
Từ năm 1991 đến nay kinh tế Australia chưa hề suy thoái, đây có thể xem là nền kinh tế vững chắc nhất CPTPP. “Xương sống” là ngành dịch vụ (chiếm 68% GDP) tiếp đến là nông nghiệp và khai khoáng.
Nông nghiệp “sạch” hay công nghệ cao là một trong những thương hiệu của quốc gia này. Với khoảng 10 triệu dân trong độ tuổi lao động, xứ sở chuột túi tạo ra khối lượng GDP hơn 1.300 tỷ USD, bình quân trên 74 ngàn USD/ người. Là một trong những thị trường "khó tính" bậc nhất thế giới.
Australia là một quốc gia dịch vụ, không khó hiểu khi những mặt hàng họ cần là máy móc và giao thông vận tải, thiết bị điện và viễn thông; dầu thô và các sản phẩm tinh chế từ dầu thô…
Việc xâm nhập thị trường Australia với nông sản - tư cách là thế mạnh của Việt Nam không dễ dàng chút nào. Thực tế đã được chứng minh từ nhiều năm nay, trong khi đó nông sản từ Australia (thịt bò, trái cây, các sản phẩm từ cá hồi…) là “model” tiêu dùng ở phân khúc khách hàng tầm cao ở Việt Nam.
Đây là nền kinh tế có chỉ số tự do thuộc top đầu thế giới, song luôn khắt khe với các tiêu chuẩn nhập khẩu, xuất khẩu.
2. Canada
Có một câu chuyện phản ánh một sự thật ở đất nước này: Nếu bạn gặp một người Canada ở đâu đó và thực hiện một đặt cược với anh ấy rằng, anh ta làm việc trong ngành công nghiệp dịch vụ. Khả năng 70% bạn sẽ giành chiến thắng!
Canada là một thành viên của khối G7+1, một nền kinh tế dịch vụ đúng nghĩa khi lĩnh vực này chiếm 70% GDP - tương ứng với tỷ lệ chiến thắng của cá cược như câu chuyện trên.
Khai thác gỗ, dầu mỏ cùng với sản xuất ôtô là những ngành kinh tế công nghiệp chủ đạo. Canada có dung lượng thị trường gần 40 triệu dân, khối lượng GDP ước đạt 1.600 tỷ USD, bình quân 50 ngàn USD/ người.
Đây là nền kinh tế có nhiều nét tương đồng với Mỹ, về cả thể chế kinh tế lẫn mô hình sản xuất. Vì vậy, kinh tế Canada phụ thuộc rất lớn vào Mỹ, đặc biệt nước này sẽ phải thực hiện song song hai hiệp định USMCA với Mỹ và CPTPP không có Mỹ.
Trong số những đối tác xuất - nhập khẩu nòng cốt, Việt Nam hầu nhưng vắng bóng. Vì vậy, đây là thị trường mà doanh nghiệp Việt chưa khai phá được nhiều, nhất là sản phẩm nông nghiệp.
Canada là nền kinh tế có chỉ số tự do cao, độ mở lớn, bằng chứng là ngành ngoại thương đóng góp phần lớn vào GDP, đặc biệt là các lợi thế về tài nguyên thiên nhiên - luôn là top 10 quốc gia có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn nhất thế giới.
Các mặt hàng nhập khẩu chính: máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các bộ phận, thiết bị điện tử, dầu thô, hóa chất, điện, hàng tiêu dùng lâu bền. Khá ăn khớp với thế mạnh của Việt Nam khi Canada chủ yếu xuất khẩu máy móc công nghiệp, động cơ, thiết bị viễn thông, hóa chất…
3. Nhật Bản
Nền kinh tế Nhật Bản được tạo ra bởi ý chí kiên cường mang "tinh thần samurai", dựa trên tính kỷ luật, trật tự và một năng suất lao động đáng kinh ngạc. Trong khi - đây là một trong những nơi nghèo tài nguyên thiên nhiên nhất thế giới!
Với nhiều người Việt Nam, Nhật Bản là một quốc gia/hình mẫu quá quen thuộc về mọi thứ, cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, nếu nói không quá, đây là tấm gương cần học hỏi, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế.
Là số ít ỏi trong mấy chục nền kinh tế ở Châu Á vươn lên trở thành siêu cường sau chiến tranh thế giới thứ II, có nhiều mặt đuổi kịp, thậm chí vượt Mỹ như công nghiệp điện tử, ôtô.
Nhật Bản hiện là nền kinh tế thứ 3 thế giới tính theo GDP - khoảng 5.000 tỷ USD. Nhưng đã trải qua quá trình đầy thăng trầm, từ “thần kỳ” những năm 1960 - 1970 đến suy thoái những năm 1990 và có dấu hiệu phục hồi chậm trong những năm gần đây.
Là một nền kinh tế dịch vụ đẳng cấp cao, nhưng nông nghiệp và công nghiệp của Nhật Bản cũng thuộc hàng hiếm có trên thế giới.
Hiệp định đối tác Thương mại Việt - Nhật (VJEPA) được ký kết cách đây 10 năm. Vấn đề lớn nhất của hàng hóa Việt Nam nhập khẩu vào Nhật Bản là chất lượng. Trong khi đó, Nhật Bản là một trong những nơi cung ứng nguồn FDI và ODA lớn nhất cho Việt Nam.
Kinh tế Nhật Bản đang đối mặt với tình trạng già hóa dân số và "căn bệnh công nghiệp" trầm kha tạo ra những góc khuất u tối trong xã hội. Hay nói cách khác, khủng hoảng nhân lực ở xứ sở hoa anh đào mang lại cơ hội cho những nước có cơ cấu dân số trẻ như Việt Nam.
Những năm gần đây, diễn biến thương mại Việt - Nhật có hiều hướng tích cực, nhưng cường độ không lớn: Xuất khẩu sang Nhật từ 11 tỷ USD năm 2011 lên 16,8 tỷ USD năm 2017, trong khi đó con số nhập khẩu tương ứng là 10,4 tỷ USD lên 17 tỷ USD.
Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cũng cho thấy, trong giai đoạn 2011 - 2014, Việt Nam luôn thặng dư trong trao đổi hàng hóa với Nhật Bản; trong 3 năm trở lại đây (từ năm 2015 đến 2017), cán cân thương mại hàng hóa lại đảo chiều sang trạng thái thâm hụt.
Có thể nói rằng, Nhật Bản là nền kinh tế mà Việt Nam thấu hiểu nhiều nhất trong 10 nền kinh tế còn lại của CPTPP.
Như vậy 3 trong số 6 nền kinh tế đầu tiên mà CPTPP có hiệu lực đều là những đối tác - đối thủ cực mạnh, khác biệt cơ bản về thể chế, cung cách vận hành, các tập quán xã hội lẫn phong tục văn hóa so với Việt Nam.
Còn tiếp…