WB khuyến nghị 4 giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam

Ngọc Hà 05/12/2018 12:15

Để phát triển khu vực tư nhân, cơ sở hạ tầng, vốn nhân lực và tăng trưởng xanh, sẽ cần những thể chế của nhà nước có năng lực và hiệu quả.

Ông

Ông Ousmane Dione - Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới .

Đây là một trong những đề xuất của ông Ousmane Dione - Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) về những giải pháp phát triển của Việt Nam trong thời gian tới tại Diễn đàn cải cách và phát triển Việt Nam 2018  với chủ đề "Tầm nhìn mới, động lực mới cho tăng trưởng kinh tế trong kỷ nguyên mới", được tổ chức sáng ngày 5/11 tại Hà Nội.

Điểm lại tình hình kinh tế Việt Nam, ông Ousmane Dione cho biết, dưới sự lãnh đạo của Chính phủ, những thành tựu kinh tế - xã hội mà Việt Nam đã đạt được rất nổi bật.Trong suốt 30 năm qua, nền kinh tế đã tăng trưởng trung bình gần 7%/năm. Nhờ đó, thu nhập bình quân đầu người đã tăng gần gấp 5 lần. Việt Nam ngày nay đã nổi lên như một nền kinh tế có thu nhập trung bình thấp và là nước xuất khẩu đang phát triển mạnh. Sự tăng trưởng của Việt Nam cũng có tính bao trùm, với tỷ lệ nghèo đã giảm xuống dưới 7%, so với mức hơn 60% vào cuối những năm 1980.

Nhưng hành trình trở thành một nền kinh tế hiện đại hoá, công nghiệp hoá của Việt Nam mới chỉ mới bắt đầu, và những thành tựu trong quá khứ không đảm bảo cho sự thành công trong tương lai.

Trong nước, Việt Nam sẽ phải giải quyết những trở lực mang tính cấu trúc đang gia tăng, bao gồm dân số già hóa nhanh, tăng trưởng năng suất chậm và đầu tư thấp, cũng như chi phí môi trường lên quá trình phát triển ngày càng lớn. Khi giải quyết những trở lực mang tính cấu trúc này ở trong nước, Việt Nam cũng sẽ cần phải lựa chọn hướng đi trong một bối cảnh thế giới đang thay đổi, nơi mà những chuyển đổi về mô hình thương mại toàn cầu và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vừa là cơ hội đang được định hình, vừa tạo ra những rủi ro mới.

Việt Nam đang chuẩn b ịchuyển sang chu kỳ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tiếp theo, điều quan trọng là nhìn lại những điểm còn tồn tại trong chương trình cải cách hiện nay của Việt Nam và thúc đẩy hơn nữa tiềm năng tăng trưởng của đất nước, không chỉ về mặt số lượng mà quan trọng nhất là về chất lượng và tính bền vững của tăng trưởng.

Diễn đàn

Diễn đàn Cải cách và phát triển Việt Nam 2018  với chủ đề "Tầm nhìn mới, động lực mới cho tăng trưởng kinh tế trong kỷ nguyên mới", được tổ chức sáng ngày 5/11 tại Hà Nội.

Có thể bạn quan tâm

  • Tăng trưởng kinh tế: Sẽ không biến động nhiều trong 3 tháng cuối năm

    03:48, 25/10/2018

  • Tăng trưởng kinh tế và GDP

    06:50, 23/10/2018

  • Ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý

    09:59, 30/10/2018

  • Cách thức tăng trưởng kinh tế đang tốt lên

    11:40, 22/10/2018

  • Lạc quan với tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016-2020

    08:50, 22/10/2018

  • 5 tồn tại ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam

    05:03, 11/10/2018

  • Tăng trưởng GDP năm 2018 có thể tăng cao hơn 6,7%

    11:00, 15/10/2018

  • Ủy ban Kinh tế Quốc hội: GDP bình quân đầu người khó về đích 3.200 - 3.500 USD

    15:51, 22/10/2018

Theo ông Ousmane Dione đây là điều cần thiết đối với Việt Nam để thực hiện thành công khát vọng trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình cao như đã hình dungtrong báo cáo Việt Nam 2035. Trên cơ sở đó, Ngân hàng Thế giới đề xuất bốn ưu tiên chính như sau:

Thứ nhất, cải cách để thúc đẩy phát triển khu vực tư nhân trong nước sẽ cần phải được đẩy mạnh mạnh mẽ, để trở thành động lực chính nhằm tăng năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế.

Điều này đòi hỏi phải tiếp tục nỗ lực để loại bỏ những trở ngại cho doanh nghiệp tư nhân và tăng cường môi trường pháp lý. Song song với đó, cải cách DNNN nên tập trung vào việc áp dụng thông lệ quốc tế tốt nhất trong quản trị doanh nghiệp, thông qua Uỷ ban quản lý vốn nhà nước mới thành lập, đồng thời thúc đẩy và tăng cường cổ phần hoá và thoái vốn, đặc biệt là những khoản đầu tư thương mại. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng cần chuyển từ số lượng sang chất lượng, tập trung vào đầu tư công nghệ cao và giá trị gia tăng lớn, cũng như chú ý đến khai thác mối liên kết chặt chẽ hơn giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Điều này sẽ giúp khu vực tư nhân trong nước tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Thứ hai, hiện tại còn nhiều hạn chế về tài chính, cần tiếp tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng, vốn có ý nghĩa rất quan trọng cho tăng trưởng trong tương lai.

Theo WB, chúng ta cần quan tâm không chỉ số lượng, mà đặc biệt phải lưu ý vấn đề chất lượng. Mặc dù ưu tiên đầu tư những dự án hạ tầng trọng yếu của quốc gia như Đường cao tốc Bắc - Nam, Đường sắt , Sân bay Long Thành và các cảng biển quan trọng, song việc đầu tư cho các dự án như thế này cần đượcnằm trong chiến lược tổng thể về kết nối vận tải đa phương thức.

Đứng trước những khó khăn về tài chính, việc giải phóng nguồn đầu tư tư nhân có thể có ý nghĩa to lớn trong việc đáp ứng nhu cầu đầu tư cao của Việt Nam. Một khuôn khổ hợp tác công tư (PPP) vững chắc có thể giúp giải quyết vấn đề này, cải cách cơ cấu mạnh mẽ trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng quan trọng, như sản xuất điện, có thể giúp thiết lập thị trường cạnh tranh cho dịch vụ cơ sở hạ tầng và thu hút nguồn vốn đầu tư tư nhân.

Thứ ba, Việt Nam không thể không nhấn mạnh tầm quan trọng của đầu tư vào vốn nhân lực, đặc biệt là trong bối cảnh công nghệ đột phá thay đổi nhanh chóng và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Theo WB, đầu tư vào vốn nhân lực sẽ đòi hỏi một phương pháp tiếp cận theo toàn bộ chu kỳ với những nỗ lực phối hợp hiệu quả để cải thiện công tác chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng, đặc biệt là ngay từ thời thơ ấu, giáo dục suốt đời và đào tạo kỹ năng.

Trong Chỉ số Vốn Con người mới công bố gần đây của Nhóm Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đứng thứ 48 trong số 157 nước. Đây là thành tựu lớn, và Việt Nam đã đạt nhiều kết quả tích cực trong giáo dục phổ thông. Nhưng theo WB, Việt Nam còn cần những kiến thức và kỹ năng của thế kỷ 21 để năng suất lao động cao hơn. Điều này đòi hỏi phải tập trung vào chất lượng và sự phù hợp của giáo dục đại học và dạy nghề. Ngoài ra, việc xây dựng một khuôn khổ thể chế và cơ chế khuyến khích hiệu quả để đổi mới – lấy các công ty tư nhân làm trung tâm – cũng có tác động lớn đến sự phát triển trong tương lai.

Thứ tư, sự tăng trưởng nhanh chóng của Việt Nam đang tạo ra chi phí môi trường ngày càng lớn.

Có thể thấy rõ điều này với sự suy thoái đất và xói mòn đất, phát thải khí nhà kính và ô nhiễm không khí ngày càng tăng nhanh, làm suy thoái nguồn nước, phá rừng và gây áp lực lên đa dạng sinh học. Tốc độ phát thải khí nhà kính đang vượt qua sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Việt Nam, thể hiện chủ yếu ở sự phụ thuộc ngày càng nhiều vào việc sản xuất điện từ đốt nhiên liệu chứa hàm lượng các bon cao.

Theo Chỉ số hiệu quả hoạt động môi trường do Đại học Yale xây dựng để xếp hạng 180 quốc gia trên toàn thế giới, Việt Nam xếp thứ 132. Những vấn đề môi trường ngày càng tăng này không chỉ tác động trực tiếp đến chất lượng cuộc sống, mà còn có khả năng ảnh hưởng đến tăng trưởng trong dài hạn. Hoạt động quản lý tài sản tự nhiên của Việt Nam và xây dựng khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu có ý nghĩa rất quan trọng để đảm bảo sự tăng trưởng bền vững trong các lĩnh vực then chốt như nông nghiệp, chế biến thực phẩm và du lịch.

Theo WB, để thực hiện 4 nội dung ưu tiên này về khu vực tư nhân, ngoài cơ sở hạ tầng, vốn nhân lực và tăng trưởng xanh, sẽ cần những thể chế của nhà nước có năng lực và hiệu quả.

Ngoài ra, thể chế thị trường hiệu quả, tính minh bạch, rõ ràng và trách nhiệm giải trình là những yếu tố cơ bản của sự phát triển. Hơn nữa, khi Việt Nam đã trở thành một nước có thu nhập trung bình, những thách thức phát triển sẽ ngày càng phức tạp và mang tính đa ngành hơn nữa. Do đó, sự phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ban ngành cũng như giữa các cơ quan trung ương và địa phương hiện nay quan trọng hơn bao giờ hết.

Việt Nam cũng sẽ phải huy động và sử dụng những nguồn lực khan hiếm của mình một cách hiệu quả để tài trợ cho một chương trình phát triển đầy tham vọng. Tăng cường huy động vốn từ nguồn thu trong nước, bổ sung bằng những nỗ lực nâng cao hiệu quả chi tiêu và năng lực quản lý nợ, đóng vai trò quan trọng để đảm bảo có thể đạt được mục tiêu phát triển mà không tăng nợ đến mức không bền vững.

Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, nguồn vốn ODA hiện có sẽ phải được sử dụng một cách chiến lược và hiệu quả hơn để bổ sung nguồn vốn đầu tư công trong nước và tận dụng được những lợi ích phi thương mại, bí quyếtkinh doanhvà đầu tư tư nhân.

Ngọc Hà