Nguồn lực doanh nghiệp trong phát triển Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Chiều 27/9, Diễn đàn "Vai trò doanh nghiệp trong phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam" chính thức diễn ra tại Hội trường Thống nhất, 135 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Quận I, TP Hồ Chí Minh.
Diễn đàn được triển khai với sự chỉ đạo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; UBND các tỉnh Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; Báo Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với Sở Kế hoạch Đầu tư – Trung tâm xúc tiến Thương mại các tỉnh Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam tổ chức.
Diễn đàn có sự tham gia của: TS Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; ông Võ Tân Thành - Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Giám đốc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Chi nhánh TP HCM; ông Nguyễn Hồng Long - Phó Ban chuyên trách Ban chỉ đạo đổi mới phát triển doanh nghiệp; ông Trần Thanh Liêm - Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương; ông Trần Văn Vĩnh - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai; bà Trần Thị Bích Liên - Phó Vụ trưởng Vụ đổi mới DN, Văn phòng Chính phủ; ông Đào Xuân Tuế - Phó Vụ Trưởng Vụ ngân sách nhà nước Bộ Tài chính; ông Đặng Vũ Trân - Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý Doanh nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; bà Nguyễn Thúy Hiền – Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch Bộ Công thương.
Ông Shinji Hirai- Trưởng đại diện Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản tại Tp HCM (Jetro Tp HCM); Ông Lê Duy Hiệp - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistic Việt Nam; TS Trần Du Lịch - Thành viên tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Chính phủ; TS Đỗ Thiên Anh Tuấn – Giảng viên ĐH Fulbrightl; TS Lê Thành Trung –Phó Tổng Giám đốc HDBank; Ths Nguyễn Như Triển – GĐ Trung tâm Nghiên cứu miền Nam, Viện Nghiên cứu chiến lược, Bộ Kế hoạch và Đầu tư… cùng sự hiện diện của gần 400 doanh nghiệp đến từ các tỉnh thành.
Phát biểu khai mạc, TS Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho biết, Diễn đàn Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là một trong những hoạt động để thúc đẩy triển khai Chỉ thị số 19/Ct-TTg về các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Đây cũng là hoat động cụ thể để triển khai Cuộc vận động “Doanh nghiệp, doanh nhân đóng góp ý kiến hoàn thiện cơ chế, chính sách, phát triển kinh tế”.
Cũng theo TS Vũ Tiến Lộc, nhằm tạo điều kiện thuận lợi để Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam phát huy hết tiềm năng, lợi thế, phát triển bứt phá và bền vững, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam tập trung chỉ đạo thực hiện các mục tiêu, giải pháp cụ thể. Trong đó, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trong vùng KTTĐ phía Nam được giao nhiệm khẩn trương đánh giá tình hình thực hiện và đề xuất các giải pháp cho giai đoạn tiếp theo.
“Đây là nhiệm vụ quan trọng, các tỉnh thành phố đang tập trung triển khai. Hội nghị sẽ đưa ra những mô hình để các địa phương thực hiện chỉ thị của Thủ tướng. Chúng ta sẽ hiến kế cho phát triển kinh tế vùng. Nhìn xa hơn đây cũng là hoạt động để tiếp tục triển khai Nghị quyết 35 – Nghị quyết đầu tiên riêng về phát triển doanh nghiệp với mục tiêu phát triển các doanh nghiệp thời gian tới. Diễn đàn sẽ tập trung bàn thảo về liên kết vùng với vai trò trung tâm là doanh nghiệp”, TS Vũ Tiến Lộc khẳng định.
Chủ tịch VCCI cũng khẳng định, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là một trong những vùng kinh tế tạo động lực phát triển quan trọng hàng đầu của cả nước, đồng thời đóng vai trò một cửa ngõ kinh tế và cầu nối giao thương của Việt Nam với thế giới. Khu vực này đang hội tụ những lợi thế nổi trội và có nhiều điều kiện để phát triển công nghiệp, dịch vụ, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
“Đây sẽ là vùng trọng điểm, là đầu tàu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, TS Vũ Tiến Lộc nhấn mạnh.
Cụ thể, nhiều thành phố của vùng luôn là những tỉnh, thành dẫn đầu cả nước với mức tăng GDP, thu hút FDI và hơn cả là khả năng cải thiện môi trường kinh doanh thuộc nhóm tốt nhất cả nước.
Với 8 tỉnh thành, địa phương theo quy hoạch, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam hiện đang đóng góp lớn nhất cả nước, với tỷ trọng cao về tăng trưởng GDP, đạt 45,4% GDP cả nước, tổng thu ngân sách chiếm 42,6% tổng số thu của cả nước tính đến cuối năm 2018. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung vào các ngành công nghiệp dịch vụ có lợi thế tạo ra giá trị gia tăng cao.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cũng là trung tâm thu hút đầu tư nước ngoài lớn nhất cả nước với hơn 15 nghìn dự án FDI còn hiệu lực, có 140 khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động...
Tuy nhiên, TS Vũ Tiến Lộc cũng thẳng thắn nhận định, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cũng đang đối mặt thách thức về tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm lại. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2018 chỉ ngang mức bình quân cả nước.
“Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đang “dừng lại” trong các cuộc đua với các khu vực kinh tế khác trong cả nước”, Chủ tịch VCCI nói.
Theo đó, Vùng kinh tế trọng điểm lớn nhất cả nước nhưng những lợi thế của Vùng chưa được phát huy đầy đủ nhằm tạo ra những động lực mới cho tăng trưởng, kết cấu hạ tầng chưa tương xứng, kết nối chưa đồng bộ.
Chất lượng phát triển đô thị còn thấp, bị ảnh hưởng lớn bởi biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Nhiều khu vực còn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Chưa bảo đảm hết nhu cầu an sinh xã hội. Phát triển nguồn nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu đề ra.
Đặc biệt, cơ chế, chính sách phát triển Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam còn chưa hoàn thiện, thiếu đột phá cần thiết. Nhận thức về lợi ích của các chủ thể liên quan chưa đầy đủ, còn khác nhau, thiếu liên kết vùng chặt chẽ. Trên thực tế cơ chế liên kết vùng còn lỏng lẻo và thực sự chưa hiệu quả.
Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp giữa các tỉnh, thành phố trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam còn mang tính tự phát, hình thức, chương trình phối hợp phát triển kinh tế còn mang tính cục bộ, chưa phát huy có hiệu quả lợi thế so sánh của Vùng. “Không cộng sinh, không tích hợp và không lan toả được, đây là những điểm cần khắc phục”, TS Vũ Tiến Lộc nhấn mạnh.
Chủ tịch VCCI cho biết, hiện nay chúng ta nói nhiều đến hội nhập quốc tế với nhiều FTA thế hệ mới. “Nhưng chúng ta đặt yêu cầu liên kết với thế giới, nhưng chúng ta lại chưa liên kết nổi với nhau. Muốn hội nhập thành công chúng ta phải liên kết được trong nước. Muốn nói đến hội nhập quốc tế phải hội nhập tốt trong nền kinh tế Việt Nam. Phải liên kết tạo lan toả tốt trong các địa phương của VN. Và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam phải đi đầu trong liên kết, lan toả, hội nhập lẫn nhau”, TS Vũ Tiến Lộc nói.
Muốn thực hiện mục tiêu này, cần tầm nhìn bao quát. Các hội đồng vùng phải đóng vai trò dẫn dắt. “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với điều kiện của nhà nước kiến tạo Nhà nước cần đề ra những chính sách phát triển vùng hợp lý, không phải thụ động. Đây cũng là mô hình nhà nước thành công ở những nền kinh tế thành công ở Đông Á. Nhà nước thành công không chỉ là trọng tài, tạo sân chơi”, Chủ tịch VCCI nhấn mạnh.
Cùng với đó, Nhà nước dẫn dắt còn doanh nghiệp dẫn vai trò trung tâm. Hệ sinh thái của nền kinh tế số hiện nay phải là chuỗi liên kết, khởi nghiệp sáng tạo phải là dòng chảy chính.
Chủ tịch VCCI cho biết định hướng này đã được nêu rõ trong Chỉ thị số 19/Ct-TTg của thủ tướng. Trong đó chúng ta nhấn mạnh tới vai trò của doanh nghiệp.
Theo đó, TS Vũ Tiến Lộc cho biết có một cơ chế rất quan trọng. Hiện các địa phương trong khu vực đều có hiệp hội doanh nghiệp, nhưng vùng kinh tế trọng điểm lại thiếu cơ chế liên kết... Do đó, cần có hội đồng doanh nghiệp vùng. Theo đó, chính các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp là người đề xuất là trung tâm kết nối doanh nghiệp vùng, xác định phát triển công nghệ thế nào, logistics thế nào… chính doanh nghiệp phải là người đề xuất.
“Qua rồi thời gian chúng ta nghĩ tới việc cạnh tranh với nhau, đây là thời các dự án của TP HCM phải tạo ra mạng lưới cho các địa phương khác phát triển. Theo đó, chúng ta phải tạo chuỗi giá trị. Chuỗi giá trị không bao giờ đóng khung trong một địa phương. Các địa phương phải sát cánh, sẽ có địa phương đi trước, địa phương đi sau, nhưng mỗi sự phát triển của một địa phương phải là tiền đề cho các địa phương khác. Phải xây dựng được cơ chế hợp tác như vậy”, Chủ tịch VCCI khẳng định.
Theo TS Vũ Tiến Lộc, cộng đồng doanh nghiệp kiến nghị cần có Ban chỉ đạo khu vực với các Phó Thủ tướng chỉ đạo. Cùng với đó, có một một hội đồng doanh nghiệp trên cơ sở tương tác giữa của doanh nghiệp.
Cùng với đó, vùng này cần phát triển kinh tế số, khuyến khích hình thành các hội đồng doanh nghiệp theo từng lĩnh vực như nông nghiệp, dich vụ... Nếu thiết lập được cơ chế liên kết như vậy thì sẽ tạo được liên kết thành công.
PHẦN I: TỔNG QUAN - ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH KINH TẾ VÙNG
Tổng quan về Huy động nguồn lực đầu tư hạ tầng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, TS. Trần Du Lịch – TV Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Chính phủ cho biết, Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam bao gồm TP.HCM và 7 tỉnh : Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước; Bà Rịa-Vũng Tàu; Tây Ninh, Long An và Tiền Giang. Với diện tích 30.404 km2; dân số dự kiến đến năm 2020 khoảng 22 triệu người. Đóng góp khoảng 46% GDP cả nước và hơn 42% nguồn thu ngân sách quốc gia.Chiếm 60 số dự án và 40% vốn FDI.
Chủ trương của Đảng, Chính phủ là phải liên kết vùng. Tập trung nguồn lực để thực hiện đúng mục tiêu nền kinh tế động lực của cả nước. Tuy nhiên, mấy năm qua đã không thực hiện được việc liên kết, làm giảm vai trò đầu tàu kinh tế của cả nước. Để thực hiện được việc này, cần phải có tư duy kinh tế tỉnh phải dựa trên kinh tế vùng. Giải pháp liên quan đến vùng phải dựa trên quy hoạch. Chính phủ phải định hướng các chính sách, tác động vào thị trường, đem lại lợi ích để thu hút doanh nghiệp thực hiện.
Để phát huy tiềm năng thực sự của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, TS Trần Du Lịch đề xuất: Thứ nhất, cần có sự đổi mới mang tình đột phá về tư duy “phát triển kinh tế Vùng” thay cho tư duy “kinh tế tỉnh” thông qua cơ chế điều hành kinh tế và phân bố ngân sách của Chính phủ và chính quyền địa phương. Khi lập quy hoạch Vùng theo Luật quy hoạch cần lồng ghép chính sách phát triển Vùng trong nội dung thực hiện quy hoạch.
Thứ hai, để nâng cao tính năng động của các địa phương có lợi thế phát triển đề nghị cho thí điểm cơ chế tự chủ ngân sách 4 địa phương: TP. HCM; Bình Dương; Đồng Nai và Bà Rịa- Vũng Tàu theo cơ chế: Giảm bớt phần lồng ghép ngân sách nhà nước giữa TW và địa phương; ổn định tỷ lệ phân chia ngân sách giữa TW và địa phương theo Luật ngân sách trong 5 năm. Địa phương được hoàn toàn tự chủ chi phần ngân sách địa phương. Phần ngân sách TW hỗ trợ như đầu tư do TW kiểm soát. Cơ chế này kèm theo cơ chế tăng trách nhiệm cũa HĐND và tính công khai minh bách về ngân sách.
Thứ ba, cần xem việc xây dựng hệ thống giao thông kết nối vùng là tiền đề của liên kết phát triển Vùng và điều kiện để xây dựng các đô thị mới. Cần tập trung nguồn lực để phát triển hệ thống giao thông Vùng đã được quy hoạch đến năm 2020 và 2030 (trong đó phần giao thông kết nối vùng đã được xác định trong quy hoạch giao thông TP.HCM do TTg quyết định năm 2013).
Thứ tư, trên cơ sở quy hoạch giao thông kết nối Vùng và liên Vùng đã được phê duyệt cần phân định cụ thể phần TW đầu tư ( bộ GTVT chịu trách nhiệm), phần do chính quyền các địa phương cùng chịu trách nhiệm. Sự phân định này làm cơ sở cho việc bố trí nguồn đầu tư trung hạn trong từng kế hoạch 5 năm.
Thứ năm, lập quỹ đầu tư giao thông vùng từ các nguồn: Ngân sách TW cấp, ngân sách địa phương đóng góp; nguồn thu từ đất đô thị hóa do hệ thống giao thông tạo ra; nguồn tín dụng ưu đãi… Có Hội đồng quản lý quỹ đầu tư hạ tầng giao thông Vùng với sự tham gia của các chính quyề địa phương trong Vùng.
"Trong tương lai, nếu giải quyết tốt, đây sẽ là nơi đến của doanh nghiệp" - TS. Trần Du Lịch khẳng định.
Thảo luận về chủ đề Đổi mới Doanh nghiệp và phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, ông Nguyễn Hồng Long – Phó ban chuyên trách Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển DN chia sẻ: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.
Ở trình độ phát triển chưa cao như nền kinh tế nước ta, Nhà nước đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước sử dụng các nguồn lực của mình, cùng các công cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong phát triển kinh tế vùng thể hiện trên một số phương diện chủ yếu về trình độ công nghệ, trình độ quản lý, hiệu quả kinh tế - xã hội và năng lực cạnh tranh.
Đồng thời, đóng vai trò hàng đầu trong việc khắc phục, hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường. Độc quyền những lĩnh vực có quan hệ trực tiếp đến an ninh quốc gia; là công cụ để thúc đẩy các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân cùng phát triển.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong giai đoạn vừa qua, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước còn chưa tương xứng với nguồn lực đang nắm giữ. Một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động yếu kém, thua lỗ, còn để xảy ra tình trạng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, làm thất thoát tài sản nhà nước. Việc cơ cấu lại các doanh nghiệp hoạt động thua lỗ, các dự án doanh nghiệp đầu tư không hiệu quả ở nhiều nơi còn chậm nên hậu quả ngày càng nghiêm trọng.
Để khắc phục các hạn chế của doanh nghiệp nhà nước đã nêu cần phải đổi mới, tái cơ cấu để đảm bảo công khai, minh bạch trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Mục tiêu trong thời gian tới nhà nước sẽ tách nhiệm vụ công ích ra khỏi hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị để đảm bảo doanh nghiệp nhà nước là công cụ để thúc đẩy các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân cùng phát triển.
Về phát triển doanh nghiệp tư nhân, Phó Ban chuyên trách ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp thẳng thắn cho biết, có một số tồn tại, thứ nhất, nhiều doanh nghiệp không biết về Nghị quyết 35 là gì. Trong khi đó, Nghị quyết này có quy định cho phép doanh nghiệp được quyền tiếp cận các nguồn lực vốn, con người, tài nguyên…
Thứ hai, doanh nghiệp cũng chưa tiếp cận được các nguồn lực. Đào tạo nhân lực chủ yếu là thụ động theo các hiệp hội và doanh nghiệp đào tạo.
Thứ ba, hướng dẫn hoạch toán sổ sách về thuế được bộ tài chính đang nghiên cứu. Nhưng quy định để thúc đẩy hộ kinh doanh thành doanh nghệp lại đang cản trở bởi nhiều quy định rườm rà.
Lấy ví dụ về thực tế tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, ông Long cho biết, tại TP HCM 3 cảng nhưng chưa liên kết được mặc dù chỉ trong bán kính 30km. Vậy vai trò của các Bộ, cơ quan chuyên ngành phải làm việc, làm sao tạo được liên kết? “Bản thân nhà ta đi ra nước ngoài hội nhập nhưng với ông hàng xóm lại không liên kết”, ông Long nhấn mạnh.
Cho ý kiến về cơ chế điều tiết ngân sách và nguồn lực cho đầu tư phát triển, ông Đào Xuân Tuế - P.Vụ trưởng Vụ Ngân sách NN, Bộ Tài chính cho biết, Đại hội thứ 12 nói Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, thế nhưng nhiều nhiều người đang nhầm lẫn là doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đây là một sự nhầm lẫn, do đó cần có sự phân biệt rõ ràng giữa khái niệm.
Vai trò chủ đạo phải làm rõ được các nhiệm vụ sau đây: Có trình độ quản lý và năng lực quản lý, năng lực cạnh tranh tốt; đóng vai trò hàng đầu trong khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường; đảm bảo an ninh quốc gia; công cụ để thúc đẩy thành phần kinh tế khác để nền kinh tế quốc dân cùng phát triển. Nhiệm vụ thứ 4 này là nhiệm vụ trọng yếu của Hội nghị ngày hôm nay.
Cũng theo ông Tuế, trước khi đạt được các mục tiêu này, thì từ trước tới nay, trong suy nghĩ đều nói về tính làm ăn không hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Cái này không ai phủ nhận, thông qua các thông số công bố trên sách trắng vừa qua, nhưng các chỉ số nếu phân tích thì các con số là hết sức khô khan, không thể hiện được đầy đủ bản chất kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước ngoài nhiệm vụ sản xuất kinh doanh ra thì còn đảm nhiệm rất nhiều trọng trách khác.
"Trong đó thì có làm các nhiệm vụ công ích, các nhiệm vụ an ninh quốc phòng… “vừa xay lúa vừa ẵm em” dẫn tới việc khó mà có thể hoạt động một cách hiệu quả. Muốn các doanh nghiệp nhà nước hiệu quả dần phải hướng tới việc giảm các nhiệm vụ công ích để tập trung vào các nhiệm vụ chính".
Nhưng không vì thế mà không có động thái gì. Chính vì việc các doanh nghiệp nhà nước đang phải đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ như thế, Đảng và Nhà nước đã có chính sách và cơ chế tái cơ cấu, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Nếu năm 1986 cả nước mới có 12 nghìn doanh nghiệp nhà nước thì đến năm 2011, còn 6000 và đến thời điểm hiện tại còn 569 doanh nghiệp hoạt động trong 11 lĩnh vực then chốt liên quan đến hạ tầng doanh nghiệp. Về các lĩnh vực liên quan đến dịch vụ, về cơ bản thì đã cổ phần hóa.
Đổi mới và sắp xếp lại các doanh nghiệp với mục tiêu rằng để hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả chứ cổ phần hóa và thoái vốn không phải mục tiêu, mà nó là công cụ.
Căn cứ vào phân cấp nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương (tính theo định mức phân bổ do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định), trường hợp nguồn thu NSĐP hưởng 100% vẫn chưa đủ đáp ứng được nhiệm vụ chi, thì được để lại tiếp phần thu từ các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và NSĐP cho đến khi đủ nhiệm vụ chi, phần thừa phải điều điết về NSTW, nếu để lại 100% các khoản thu phân chia mà vẫn không đủ, thì NSTW sẽ bổ sung cho NSĐP phần chênh lệch (gọi là bổ sung cân đối).
Đối với thời kỳ ổn định ngân sách 2017-2020, định mức phân bổ ngân sách đã có những quy định tăng nguồn lực cho các địa phương thuộc các Vùng kinh tế trọng điểm, trong đó có vũng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Cụ thể: Định mức phân bổ ngân sách về dự toán chi thường xuyên theo Quyết định số 46/2016/QĐ-TTg ngày 19/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ áp dụng cho thời kỳ ổn định ngân sách 2017-2020 thực hiện chính sách ưu tiên nêu trên; theo đó, thành phố Hồ Chí Minh được phân bổ thêm 70% số chi tính theo định mức dân số; các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu được phân bổ thêm 40% số chi tính theo định mức dân số; tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu được phân bổ thêm 35% số chi tính theo định mức dân số.
Ngoài ra, tỉnh Long An và Tiền Giang thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nhưng cũng thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long ưu tiên nâng mức phân bổ lên 7% số chi tính theo định mức dân số.
Định mức phân bổ ngân sách về dự toán chi đầu tư phát triển theo Quyết định 40/2015/QĐ-TTg ngày 14/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN giai đoạn 2016 - 2020. Theo đó, quy định về số điểm ưu tiên thêm cho những địa phương có tỷ lệ đóng góp về NSTW và những địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm.
"Với nguồn lực NSNN có được, cơ chế điều tiết ngân sách hiện nay đã ưu tiên đảm bảo nguồn lực cho các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Tuy nhiên, so với nhu cầu đầu tư phát triển, nhất là phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của các địa phương trong vùng, thì mới chỉ đáp ứng được một phần" - ông Tuế cho biết.
Cho ý kiến về thúc đẩy sự phát triển lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, ông Đặng Vũ Trân - Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý Doanh nghiệp, Bộ NN&PTNT đánh giá, trong bối cảnh đất nước đang hội nhập sâu rộng đòi hỏi ngành nông nghiệp phải sản xuất hàng hóa lớn, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, tái cơ cấu ngành nông nghiệp, đẩy mạnh phát triển ứng dụng CNC trong nông nghiệp, hợp tác liên kết ngành tạo ra chuỗi giá trị bền vững, hiệu quả có giá trị gia tăng cao là đòi hỏi tất yếu của một nền nông nghiệp hiện đại.
Đối với các tỉnh Vùng KTTĐPN gồm 8 tỉnh, thành phố với Mục tiêu phát triển nông nghiệp toàn diện, bền vững theo hướng sản xuất hàng hóa lớn với hình thức tổ chức sản xuất và kỹ thuật hiện đại. Chú trọng phát triển nông nghiệp sinh thái, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, đầu mối tiếp nhận, chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp, xây dựng thương hiệu cho một số nông sản có thế mạnh và đặc trưng.
Tuy nhiên, trên thực tế, thúc đẩy phát triển nông nghiệp Vùng KTTĐPN vẫn còn nhiều hạn chế. Vùng KTTĐPN cũng như cả nước chỉ có 1% tổng số doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp với số vốn chỉ chiếm gần 3% tổng số vốn đầu tư của cộng đồng doanh nghiệp vào sản xuất, kinh doanh. Trong đó, 90% số doanh nghiệp nhỏ và vừa với số vốn dưới 10 tỷ đồng. Đáng chú ý, hơn 80% số doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình tìm hiểu và áp dụng nông nghiệp. Hầu hết doanh nghiệp nông nghiệp đều là doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm số lượng lớn là các hợp tác xã (HTX).
“Do đó, để khắc phục tình trạng này cần có những rà soát, đánh giá tổng thể, đẩy mạnh chuỗi liên kết ngành và khuyến khích đầu tư CNC trong nông nghiệp Trong đó, các doanh nghiệp phải là “trụ cột”, đầu tàu trong việc thúc đẩy phát triển chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh và phát triển thương hiệu nông sản Việt Nam”, ông Đặng Vũ Trân nhấn mạnh.
Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý Doanh nghiệp, Bộ NN&PTNT đề xuất một số giải pháp. Một là, hoàn thiện cơ chế chính sách về đất đai tạo điều kiện cho việc tích tụ, tập trung đất đai sản xuất quy mô lớn.
Theo đó, hiện nay hầu hết đất đai canh tác trong nông nghiệp đều chia cho các hộ gia đình có lịch sử từ thời khoán 10 của thập niên 90 đất giao cho các hộ có thời hạn 30 năm rất nhỏ lẻ, manh mún, Luật Đất đai hiện hành còn nhiều vấn đề bất cập trong đó có quy định về “hạn điền” (Điều 129 Luật Đất đai 2013) chưa được sửa đổi đang còn là rào cản hạn chế cho việc ban hành một cơ chế chính về tích tụ đất đai do đó việc các doanh nghiệp muốn có đất để sản xuất lớn, áp dụng CNC gặp rất nhiều khó khăn bản thân chính quyền địa phương cũng rất mong muốn các DN đầu tư nhưng chưa có cơ sở pháp lý cho viêc thực hiện hài hòa lợi ích người dân, doanh nghiệp khi tích tụ đất đai để sản xuất lớn và ứng dụng CNC.
“Chính sách quản lý đất nông nghiệp mà cụ thể là đất trồng lúa còn bất cập gây khó khăn cho doanh nghiệp, nhà đầu tư”, ông Trân đánh giá.
Do đó, cần thay đổi quan điểm “giữ đất lúa” sang “giữ đất nông nghiêp”. “Chính phủ cần đề xuất sớm sửa đổi Luật Đất đai để tạo hành lang pháp lý cho việc tích tụ, tập trung đất đai để sản xuất nông nghiệp quy mô lớn”, Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý Doanh nghiệp, Bộ NN&PTNT đề xuất.
Hai là, tạo quỹ đất quy mô lớn kêu gọi doanh nghiệp đầu tư CNC vào nông nghiệp. Theo ông Trân, trong thời gian qua nhiều doanh nghiệp trở thành nòng cốt của chuỗi giá trị và sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, phát triển thị trường. Bên cạnh sự đầu tư, phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, một số tập đoàn, doanh nghiệp lớn đã đẩy mạnh đầu tư vào nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng CNC, tập đoàn Vineco; Nafoods, TH, Dabaco Việt Nam, Masan, Lavifood, Công ty TPXK Đồng Giao... tuy nhiên những doanh nghiệp lớn đã đầu tư vào nông nghiệp đang rất khiêm tốn.
Nhiều doanh nghiệp rất muốn đầu tư vào nông nghiệp nhưng điều khó khăn nhất và đầu tiên đó là “Quỹ đất sạch”. Việc tìm quỹ đất đầu tư cho đúng với quy hoạch phát triển của địa phương và phù hợp với mục tiêu đầu tư của doanh nghiệp đã khó việc có quỹ đất sạch cho doanh nghiệp đầu tư còn khó khăn gấp bội phần chính vấn đề này đã làm nản lòng các doanh nghiệp muốn đầu tư CNC vào nông nghiệp.
“Do vậy, Nhà nước cần có cơ chế giao cho các địa phương (cấp tỉnh, thành phố) quy hoạch các khu, vùng nông nghiệp sản xuất sản phẩm nông nghiệp CNC và điều quan trong là tạo quỹ đất sạch trước khi kêu gọi doanh nghiệp đầu tư thay vì cứ kêu gọi đầu tư rồi sau này giao cho doanh nghiệp tự lo giải phóng mặt bằng, tự thỏa thuận còn địa phương chỉ hỗ trợ dẫn đến chậm tiến độ làm nản lòng doanh nghiệp”, ông Đặng Vũ Trân khẳng định.
Ba là, Nhà nước cần ban hành một cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư quy mô lớn vào nông nghiệp. “Chúng ta cần có các doanh nghiệp lớn đầu tư vào nông nghiệp. Cần có chính sách riêng cho các vùng kinh tế trọng điểm”, ông Đặng Vũ Trân nhấn mạnh.
Từ góc độ địa phương, ông Trần Thanh Liêm – Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương cho biết, Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là vùng kinh tế động lực, nơi hội tụ những lợi thế nổi trội và có nhiều điều kiện để phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2016-2018 của Vùng đạt 11,31%/năm, gấp 1,7 lần mức tăng bình quân cả nước. Năm 2018, GRDP của toàn vùng đạt khoảng 2,517 triệu tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 45,42% GDP. Thu nhập bình quân đầu người năm 2018 của Vùng đạt khoảng 5.474 USD, gấp hơn 2 lần trung bình cả nước.
Kết nối kinh tế, liên kết vùng về bản chất cuối cùng vẫn là sự kết nối của doanh nghiệp. Chính quyền các cấp tạo ra không gian kết nối, tạo ra cơ sở hạ tầng cho sự kết nối và xây dựng cơ chế để thúc đẩy còn hành động cụ thể là của doanh nghiệp.
Thời gian qua, nhiều doanh nghiệp trong vùng đã tận dụng thời cơ để tham gia vào phát triển hạ tầng và xây dựng những chuỗi sản phẩm của vùng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, còn tồn tại một số điểm nghẽn trong thực hiện liên kết vùng, ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp, cụ thể:
Một là, kết nối hạ tầng giao thông, vận tải còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, phát huy tiềm năng của vùng.
Hai là, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Lao động trình độ từ cao đẳng, trung cấp trở lên chiếm tỷ lệ thấp trên tổng số lao động được đào tạo. Xảy ra tình trạng thiếu lao động, mất cân đối cung cầu trong phân bổ nguồn lao động.
Ba là, tỷ lệ nhập cư, tỷ lệ tăng dân số cơ học cao đã gây ra tình trạng quá tải của hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt ở các đô thị và khu công nghiệp.
Bốn là, chưa xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu về các ngành, lĩnh vực ưu tiên liên kết vùng do đó chưa hỗ trợ được việc lựa chọn các dự án liên kết vùng cũng như đánh giá quá trình và hiệu quả của các hoạt động liên kết.
Để phát huy hơn nữa vai trò của doanh nghiệp trong phát triển kinh tế vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thời gian tới, cần tập trung vào một số giải pháp:
Thứ nhất, các tỉnh, thành phố trong vùng cần tiếp tục hỗ trợ về mặt cơ chế, chính sách để hỗ trợ sản xuất, kinh doanh.
Thứ hai, kiến nghị Chính phủ và các Bộ, ngành ưu tiên tập trung nguồn vốn ngân sách để đầu tư xây dựng các công trình giao thông trọng điểm, phát triển hệ thống logistics trong vùng, kết nối với hệ thống cấp quốc gia và liên vùng.
Thứ ba, cần đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao để mở rộng thị trường, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Đảm bảo nguồn cung lao động chất lượng.
Thứ tư, đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển.
- Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, thực hiện 3 đột phá: Hoàn thiện thể chế, Phát triển hạ tầng, Phát triển nhân lực. Theo đánh giá của ông, vai trò doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân là gì?
Ông Nguyễn Hồng Long: Thể chế là nhiệm vụ và công việc của nhà nước, không phải doanh nghiệp.
Trong 2 đột phá còn lại: Phát triển cơ sở hạ tầng, lĩnh vực này không bao giờ đem lại lợi nhuận ngay, lại cần đầu tư lớn, nên doanh nghiệp nhà nước sẽ phải là đầu tàu.
Về nguồn nhân lực, từ doanh nghiệp nhà nước cũng sẽ là nơi đào tạo nguồn nhân lực cao, chuyên sâu, sau đó lan tỏa để chia sẻ với các doanh nghiệp khác, hỗ trợ cho doanh nghiệp còn chưa đảm bảo được nguồn nhân lực tốt.
- Kinh tế phía Nam có vai trò quan trọng, tuy nhiên điều tiết phân bổ ngân sách cho vùng chưa tương xứng với đóng góp, vậy cơ chế điều tiết ngân sách nguồn lực tương lai thế nào để phát huy?
Ông Đào Xuân Tuế: Trong tỉ lệ điều tiết đã có những có yếu tố ưu tiên, hiện cũng đang tiến hành đánh giá các tiêu chí ưu tiên chưa phù hợp sẽ thay đổi phù hợp hơn, dựa trên các ý kiến thực tế sẽ điều chỉnh cho phù hợp.
- Nhiều nước có xu hướng là phát triển nông nghiệp công nghệ cao, Việt Nam cũng đi theo xu hướng này. Tuy nhiên, tích tụ ruộng đất đang là rào cản. Vậy cần giải quyết thực tế này như thế nào để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư?
Ông Đặng Vũ Trân: Đây là vấn đề lớn, thực tế doanh nghiệp đang gặp khó trong tích tụ những cánh đồng lớn. Do đó, như tôi đã nói cần xem xét lại Luật Đất đai đảm bảo nhà đầu tư đủ diện tích đất đai để kinh doanh.
Đặc biệt, đảm bảo tính pháp lý của đất. Nhiều nơi còn sự cạnh tranh, nhiều nơi huyện xã cũng đứng ra tích tụ đất cho doanh nghiệp nhưng lưu ý cần xem xét tính pháp lý quỹ đất này.
Cần có đánh giá, xem xét lại một cách đồng bộ, tổng thể chính sách đất đai, đây là vấn đề liên quan nhiều bộ ngành.
- Bình Dương tăng trưởng cao với FDI đầu tư mạnh, sự cải thiện chỉ số PCI nhanh qua các năm, vậy đâu là kinh nghiệm của tỉnh trong cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thu hút doanh nghiệp?
Ông Trần Thanh Liêm: Đối với tỉnh Bình Dương, địa phương có điều kiện thuận lợi khi địa bàn giáp TPHCM và tỉnh Đồng Nai, đây là hai địa phương có sự phát triển tốt.
Cùng với đó, điều kiện cơ sở hạ tầng của tỉnh cũng được đầu tư khá tốt. Những năm vừa qua, tỉnh đã đầu tư các quy hoạch khu - cụm công nghiệp tương đối đạt hạ tầng tiêu chuẩn kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp.
Tỉnh Bình Dương cũng vận dụng tốt những chính sách của trung ương. Trong đó, cải cách TTHC tạo thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư cho việc cấp phép, tiến hành thuê đất và triển khai đầu tư… tất cả các khâu chúng tôi đều triển khai nhanh chóng, do đó được nhà đầu tư tin tưởng.
Đặc biệt, tỉnh cũng thường xuyên tổ chức đối thoại với các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Với doanh nghiệp nước ngoài, chúng tôi còn tổ chức đối thoại riêng theo từng nước, từng khối.
Mỗi lần tiếp xúc 200-300 doanh nghiệp, qua đó giải quyết, góp ý nhanh những vấn đề mà doanh nghiệp còn vướng mắc. Do đó, từ các doanh nghiệp đã đến làm ăn trước họ giới thiệu bạn bè và các đối tác trong hệ thống của họ đầu tư vào tỉnh Bình Dương.
- Trong 3 đột phá để xây dựng kinh tế, việc xây dựng hạ tầng rất quan trọng, đặc biệt là một số công trình lớn như sân bay Long thành, cao tốc Bắc Nam, đường sắt cao tốc Bắc Nam. Việc đầu tư vào những công trình hạ tầng rất tốn, nhà nước không đủ nguồn lực, trước tình hình đó, phải dựa vào các doanh nghiệp. Theo ông, cần có cơ chế thế nào để phát huy vai trò đầu tư hạ tầng của doanh nghiệp?
Điểm nghẽn lớn nhất là triển khai đầu tư, công và tư nhân. Để thu hút doanh nghiệp tư nhân vào hạ tầng, như hình thức công tư đối tác, cần phải có luật rõ ràng, có quy định trách nhiệm như đền bù thiệt hại do vi phạm. Phải có môi trường minh bạch, giảm rủi ro, rõ ràng mới huy động được nguồn lực từ doanh nghiệp.
PHẦN II: NGUỒN LỰC CHO PHÁT TRIỂN
Phân tích về vốn đầu tư xã hội tại Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn – Giảng viên ĐH Fulbright cho biết, tổng vốn đầu tư các loại của Vùng chiếm đến 40% tổng vốn đầu tư của cả nước.
TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn dẫn số liệu của Bộ Tài chính cho thấy khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam đối với cả nước thì khu vực này, mặc dù dân số chỉ chiếm 20% nhưng GDP của khu vực lại chiếm tới 45% trong GDP của cả nước. Nhìn trong trường hợp của TP HCM, thu ngân sách chiếm tới 40% nhưng việc chi ngân sách lại chỉ chiếm 20% trong tất cả các địa phương tại khu vực. Điều này thể hiện một nghịch lý ngân sách thu càng nhiều thì chi càng ít.
Trong bức tranh vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, theo số liệu năm 2018 thì cơ cấu dân số vùng, TP HCM dân số chiếm tới hơn 40%, tiếp đến là Đồng Nai với 15%, Bình Dương là 11%... Trong khi đó cơ cấu vốn đầu tư xã hội tại TP HCM lại chiếm tới 56%, Bình Dương chỉ ở mức 12% và Đồng Nai ở mức 11%.
"Với việc chênh lệch trong các nguồn thu chi ngân sách, cơ cấu dân số vùng, cơ cấu vốn đầu tư xã hội cũng như cơ cấu GDP thì rõ ràng chất lượng môi trường kinh doanh lẫn cơ sở hạ tầng các các địa phương trong vùng, đặc biệt là TP HCM với các tỉnh khác không đồng đều. Bên cạnh thực tế đó, trong khi một số tỉnh có sự nâng hạng đáng kể về chỉ số PCI thì một số tỉnh khác lại bị tụt hạng" - ông Anh Tuấn nhấn mạnh.
Chính từ việc chênh lệch trong các nguồn thu ngân sách, chênh lệch về cơ cấu dân số vùng, cơ cấu vốn đầu tư xã hội, cơ cấu GDP thì việc thu hút các vốn đầu tư của cả vùng so với cả nước cũng có nhiều sự chênh lệch.
Có thể thấy vai trò của vốn nhà nước ở vùng kinh tế trọng điểm phía nam ít quan trọng hơn so với vốn nhà nước, tính chung trong phạm vi cả nước. Ngược lại, vốn nhà nước đối với vùng lại quan trọng hơn nhiều so với vai trò của khu vực vốn này xét trên phạm vi cả nước. Vốn FDI có vai trò quan trọng hơn đối với vùng nhưng lại không có nhiều so với bình quân chung cả nước.
Nhìn vào số liệu tổng tỷ trọng vốn đầu tư các loại của vùng so với cả nước, có thể thấy tổng vốn đầu tư các loại của vùng chiếm 40% tổng vốn đầu tư của cả nước, trong đó vốn đầu tư từ khu vực kinh tế nhà nước của vùng chỉ chiếm 20% tổng vôn đầu tư của khu vực này tính trong phạm vu cả nước. Ngược lại, vôn đầu tư ngoài nhà nước của vùng chiếm đến 54% tổng vốn đầu tư ngoài nhà nước của cả nước. Trong khi đó, vốn FDI của vùng chiếm tới 43% tổng vốn FDI của cả nước.
Là một khu vực chiếm tỷ trọng không nhiều trong tỷ trọng vốn đầu tư, cơ cấu vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước vùng, vốn đầu tư từ ngân sách, vốn vay và vốn tự có của SOEs lần lượt chiếm ở các mức 56%, 23% và 14% tổng vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước. Các con số này tương đương 9.3%, 3.8%, và 2.3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội của vùng.
Trong khi đó, vốn đầu tư khu vực doanh nghiệp chiếm đến 68% tổng vốn khu vực ngoài nhà nước, tương đương 40% tổng vốn đầu tư toàn xã hội của vùng. Vốn đầu tư khu vực dân cư chiếm 32% tổng vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước, tương đương 19% tổng vốn đầu tư toàn xã hội của vùng.
Trong cơ cấu kinh tế của vùng thì khu vực FDI chiếm tỷ trọng rất cao. Tính đến cuối năm 2018, có 15.295 dự án với tổng vốn đăng ký 153.27 tỷ USD FDI còn hiệu lực (chiếm 56% số dự án và 45% tổng số vốn đăng ký cả nước). Mặc dù chiếm tỷ trọng cao nhưng quy mô dự án lại nhỏ, trung bình quy mô một dự án FDI ở vùng kinh tế trọng điểm phía nam chỉ 10 triệu USD, thấp hơn bình quân cả nước là 12.42 triệu USD. Đặc biệt quy mô bình quân 1 dự án ở TP. HCM chỉ ở mức 5.56 triệu USD.
Mặc dù vậy nhưng nhu cầu vốn FDI của khu vực lại rất lớn. Nhìn chung vốn FDI có vai trò rất quan trọng đối với phần lớn các địa phương trong vùng. Các tỉnh mà FDI đóng vai trò đặc biệt quan trọng là Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu, Đồng Nai… TP HCM mặc dù thu hút FDI lớn hàng đầu cả nước nhưng vai trò FDI đối với nền kinh tế lại ít quan trọng hơn so với các địa phương khác.
Bên cạnh nguồn vốn từ khu vực FDI thì nguồn vốn ODA phân bổ vào vùng chỉ chiếm ở mức 11% tổng số vốn ODA của cả nước. Từ năm 2010 đến nay, ODA bị cắt giảm nhiều song nhiều nhà tài trợ song phương lẫn đa phương vẫn quan tâm đến các dự án đàu tư cơ sở hạ tầng trong vùng.
Theo quy hoạch, Khu vực vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thì đến năm 2020, toàng vùng sẽ hoàn thành khoảng 580km đường bộ cao tốc, 80% đường giao thông nông thôn được cứng hóa mặt. Bên cạnh đó, vùng sẽ tập trung phát triển ngành bưu chính, viễn thông và công nghệ thông tin theo hướng đa dạng hóa dịch vụ, mở rộng phạm vi và không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ.
"Dự báo đến năm 2025, nhu cầu vốn đầu tư khu vực nhà nước tại vùng chỉ còn chiếm 10%, đến năm 2030 tiếp tục giảm còn 7% tổng vốn đầu tư xã hội của vùng. Khu vực FDI dù hiện tại giữ vai trò khá quan trọng nhưng vai trò này sẽ giảm tương đối, đến năm 2020 chỉ còn chiếm 21% và 2030 chiếm khoảng 19% tổng vốn đầu tư xã hội của vùng. Trong khi đó, vốn đầu tư khu vực kinh tế ngoài nhà nước sẽ tăng lên 60% năm 2020 và tiếp tục tăng mạnh lên mức 74% tổng vốn đầu tư toàn xã hội của vùng vào năm 2030" - ông Anh Tuấn dự báo.
Đứng từ góc độ cơ quan quản lý trong phát triển Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, bà Nguyễn Thúy Hiền – Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch Bộ Công thương đánh giá ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng chính của Vùng. Vùng này hội tụ đầy đủ các điều kiện và lợi thế để phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp điện, điện tử, tin học, công nghiệp dầu khí, cơ khí, hóa chất, chế biến thực phẩm; đồng thời, là khu vực đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cả nước.
Ngành công nghiệp trở thành ngành thế mạnh của Vùng, có đóng góp quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của Vùng. Phát triển thương mại nội địa của Vùng và Xuất khẩu của Vùng chiếm tỷ trọng cao so với cả nước.
Bà đưa ra những góp ý một số giải pháp nhằm phát triển công nghiệp và thương mại Vùng KTTĐ phía Nam, gồm 2 điểm: Rà soát quy hoạch vùng về kinh tế, đặc biệt là quy hoạch hạ tầng cho phát triển kinh tế xã hội của vùng như hạ tầng giao thông, hạ tầng công nghiệp, thương mại, logistics... cần ưu tiên quy hoạch đầu tư các công trình hạ tầng mang tính liên kết vùng nhằm khơi thông luồng vận tải hàng hóa, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế.
Tạo điều kiện, cơ hội cho khu vực tư nhân phát triển thuận lợi hơn, tạo cơ hội tiếp cận nguồn lực, cắt giảm chi phí kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm... làm cho môi trường thông thoáng, minh bạch, thuận lợi.
Đánh giá về quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong thời gian tới, Ths Nguyễn Như Triển, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu miền Nam, Viện Chiến lược – Bộ KH&ĐT cho biết, qua theo dõi, hầu như vai trò dẫn dắt của nhà nước trong phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam còn rất mờ nhạt. Chủ yếu mang tính tự phát của từng địa phương.
Sự tăng trưởng nhanh giai đoạn trước là do quy mô vùng kinh tế trước đó còn nhỏ. Do đó, chính sách phát triển chưa phát huy hiệu quả. Đến nay, quy mô kinh tế lớn hơn lại thiếu sự dẫn dắt, dẫn tới hệ thống pháp luật của chúng ta rất chồng chéo. "Luật quy hoạch, Luật môi trường, Luật xây dựng…đều chồng chéo khiến liên kết khó khăn, thậm chí kìm hãm”, ông Triển nhấn mạnh.
Cùng với đó, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu miền Nam cho rằng, bản thân các tỉnh vẫn có liên kết với các tỉnh thành, nhưng Hội đồng vùng phải dẫn dắt để mỗi địa phương nắm được lợi thế để phát triển.
Theo đó, Hội đồng vùng năm 2015 có thành lập nhưng chỉ là cầu nối trung ương với địa phương mà chưa có chế tài để liên kết và dẫn dắt liên kết phát triển vùng.
“Chúng ta mừng vì có luật quy hoạch chung, đây sẽ là điều phối sự phát triển của mỗi vùng. Trước đây có nhiều loại quy hoạch ngành lĩnh vực đè lên quy hoạch vùng, cả nước có cả nghìn quy hoạch, mỗi tỉnh có mấy trăm quy hoạch chồng chéo… Bây giờ chỉ còn một quy hoạch một tỉnh, một vùng chỉ có một quy hoạch vùng, đây là yếu tố thuận lợi, quan trọng để điều tiết quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thời gian tới”, ông Triển cho biết.
Về vấn đề liên kết, liên kết cái gì? Vị Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu miền Nam cho rằng, Hội đồng vùng phải dẫn dắt vấn đề này. “Cần có quyền lực trong hội đồng vùng, kinh nghiệm các nước như CHLB Đức cũng có ba loại thể chế vùng là vùng hành chính, đại diện vùng và hiệp hội vùng. Nhật Bản chỉ có 1 hội đồng vùng nhưng người ta thành công do có ngân sách cho Hội đồng vùng và không kiêm nhiệm”, ông Triển cho biết.
Do đó, đại diện Bộ KH&ĐT kiến nghị, Hội đồng vùng phải hoạt động theo cơ chế không kiêm nhiệm và phải có ngân sách. Nguồn ngân sách được tạo ra từ các dự án trong vùng. Các tỉnh phải có nghĩa vụ đóng góp cho hoạt động Hội đồng vùng.
Đứng ở góc độ doanh nghiệp nước ngoài, ôngShinji Hirai – Trưởng đại diện JETRO tại TP HCM đánh giá, TP HCM và VN đóng vai trò quan trọng trong vai trò quan trọng trong chính sách đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản. Hiện tại, các doanh nghiệp của Nhật Bản đang đầu tư vào khoảng 12 tỉnh thành tại Việt Nam.
Theo một nghiên cứu của JETRO đối với khu vực châu á, khi được hỏi, các doanh nghiệp Nhật Bản khi muốn mở rộng thì Việt Nam luôn là điểm đến phổ biến thứ 2. Văn phòng JETRO tại TP HCM đã phát triển nhanh chóng, chỉ đứng sau văn phòng tại Thượng Hải. Điều đó cho thấy, JETRO Việt Nam đóng vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động đầu tư nước ngoài của các doanh nghiệp Nhật Bản.
Xét về khía cạnh đầu tư, nguồn vốn FDI đầu tư vào Việt Nam không chỉ đến từ duy nhất một quốc gia nào cả. Theo số liệu của JETRO vào năm 2018, Nhật Bản đứng thứ 2 trong các dòng vốn FDI vào Việt Nam, đứng sau Hàn Quốc, với tổng số lượng đầu tư lớn và thường xuyên. Trong số các dự án FDI mà Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam hiện nay thì khu vực sản xuất chiếm gần nửa trong số những khoản đầu tư này. Trong 2018, ngành sản xuất chiếm 28%, nhưng ngành bán lẻ và các trung tâm phân phối chiếm 22% trong năm 2018.
Doanh nghiệp Nhật Bản không chỉ tập trung vào sản xuất, mà tập trung phát triển vào khu vực bán lẻ do lực lượng tiêu dùng đang phát triển. Theo nghiên cứu của Ngân hàng phát triển Châu Á ADB, tăng trưởng JDP của Việt Nam sẽ duy trì ở mức 18% trong năm 2019. Mức độ tăng chung của các quốc gia Đông Nam Á khác trung bình là 4.8% đến 4.9%, nhưng Việt Nam được kỳ vọng sẽ đạt mức tăng trưởng vượt bậc ở mức 6.85% trong năm tới.
TP HCM được xem là trung tâm các doanh nghiệp FDI của Nhật Bản tại Việt Nam, tiếp đến là Bình Dương và Đồng Nai… Các nhà đầu tư cũng đang xem xét đến môi trường đầu tư của các tỉnh khác trong vùng để phát triển hoạt động đầu tư kinh doanh của mình tại Việt Nam.
Đối với ngành logistic, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của logistic vì đây là cánh tay của những doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Ví dụ 1 doanh nghiệp Nhật Bản sản xuất tại TP HCM đôi khi sẽ mất 2 đến 3 tiếng để di chuyển đến 1 tỉnh khác, cực kỳ mất thời gian và chi phí.
"Tôi hy vọng thông qua buổi thảo luận ngày hôm nay, TP HCM nói riêng và các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía nam sẽ tìm ra một giải pháp để cải thiện vấn đề logistic" - ông Shinji Hirai nhấn mạnh.
Với chủ đề “Làm sao đưa vốn được tới các doanh nghiệp”, ông Lê Thành Trung – P.Tổng Giám đốc HDBank cho biết: "Chúng tôi tạo ra một chuỗi liên kết, không chỉ liên kết trong phạm vi quốc gia, vùng mà cả quốc tế. Khi một doanh nghiệp tiếp cận ngân hàng nhưng không đủ điều kiện đáp ứng về tài sản đảm bảo… nhưng khi chúng tôi đi sâu vào chuỗi liên kết, nếu doanh nghiệp nằm trong các đại lý, cửa hàng phân phối trong chuỗi của chúng tôi thì vẫn đưa vào chuỗi cung ứng sản phẩm. Cho vay vốn bằng cách kiểm soát nhập xuất hàng hoá trong chuỗi. Vốn sẽ được quay vòng rất nhanh".
Ông Trung cho biết, cho vay theo chuỗi đang là mô hình phát triển tốt đảm bảo cung ứng vốn cho ngân hàng và đảm bảo an toàn cho nguồn vốn cung ứng. Tỉ lệ nợ xấu khi cho vay theo chuỗi ở ngân hàng hầu như không có. "Khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam có đầy đủ điều kiện để áp dụng ưu đãi cho vay phát triển. “Chúng ta còn có điểm cộng lớn là sự đầu tư FDI lớn. Chúng tôi cũng có kinh nghiệm cho vay FDI”, ông Trung khẳng định.
Ông Lê Duy Hiệp – Chủ tịch HH Logistic – TGĐ Transimex khẳng định vai trò quan trọng của logistic trong kinh tế. Theo ông Hiệp, hiện nay cộng đồng logistic Việt Nam có khoảng hơn 4.000 doanh nghiệp, cung cấp toàn bộ các dịch vụ logistic được phép hoạt động ở VN.
Mặc dù năng lực cung cấp dịch vụ còn hạn chế nhưng gần đây năng lực của các doanh nghiệp logistic thuần Việt đã cải thiện rất nhiều, 80% thị phần khai thác cảng, 80% kho bãi, 90% vận tải nội địa cả đường biển lẫn đường bộ là của các doanh nghiệp Việt. Vận tải quốc tế, đường biển và hàng không vẫn còn yếu, dù năng lực cạnh tranh đã cải thiện rất nhiều trong những năm qua.
Ông Hiệp cho rằng, để nâng cao hơn năng lực logistic, cần phải có 2 điều: Có quy hoạch vùng rõ ràng và phải có cơ chế liên kết vùng. Điều này sẽ có những tác dụng: Góp phần làm giảm chi phí logistic; tăng năng lực cạnh tranh cho hàng hóa và dịch vụ Việt.
Ông mong muốn lãnh đạo địa phương quan tâm hơn việc phát triển logistic, đặc biệt dành quỹ đất cho logistic. Cụ thể, cần chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, không chỉ cho riêng doanh nghiệp logistic, tất cả doanh nghiệp nhà máy, chuỗi cung ứng đều cần. Ngoài ra, ngành logistic cũng cần phải chú trọng áp dụng công nghệ thông tin, công nghệ AI, tự động hóa để quản trị logistic hiệu quả hơn.
Sau 2 phiên chương trình và gần 3 giờ đồng hồ, nhiều ý kiến, đề xuất cũng như các giải pháp đã được các doanh nghiệp, chuyên gia cũng như cơ quan quản lý đưa ra ở nhiều góc độ khác nhau với định hướng: Cùng nỗ lực huy động các nguồn lực cho phát triển kinh tế Vùng trọng điểm phía Nam được coi là “đầu tàu”, có vai trò dẫn dắt trong phát triển kinh tế cả nước.