Việt Nam xác lập chủ quyền với Hoàng Sa và Trường Sa

Trung tá TS. NGUYỄN THANH MINH – Bộ tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam (Bộ Quốc phòng) 02/09/2023 11:00

Sự thụ đắc lãnh thổ bằng chiếm hữu đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam phù hợp với những quy định tại Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 – UNCLOS.

>>Ươm thêm mầm xanh cho Trường Sa

p/Lễ chào cờ trên đảo Trường Sa Lớn. Ảnh: Thế Phong

Lễ chào cờ trên đảo Trường Sa Lớn. Ảnh: Thế Phong

Thực tiễn của luật pháp quốc tế tồn tại 5 hình thức thụ đắc lãnh thổ cơ bản sau đây: (i). Thụ đắc bằng chiếm hữu thực sự. (ii). Thụ đắc bằng chuyển nhượng. (iii). Thụ đắc bằng chiếm hữu theo thời hiệu. (iv). Thụ đắc bằng xâm chiếm. (v). Thụ đắc bằng sự tác động của thiên nhiên.

Việt Nam thực hiện liên tục và hoà bình quyền lực nhà nước

Qua cứ liệu lịch sử đều cho rằng, Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thực sự hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ít nhất từ thế kỷ XVII, tức là trước khi có sự công bố bản đồ của Đỗ Bá năm 1868. Điều này có nghĩa là Nhà nước Việt Nam đã sử dụng hình thức chiếm hữu thực sự cho việc thụ đắc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Nhà nước Việt Nam. Điều nay hoàn toàn phù hợp với công bố của Nhà nước trong sách trắng của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Từ các chứng cứ lịch sử Nhà nước Việt Nam trên thực tế đã làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng những hoạt động tổ chức khai thác, khảo sát, đặt bia, xây miếu, trồng cây, bảo vệ ngư dân…, cũng như đã thể hiện ý chí thông qua hành vi của các nhà chức trách được quốc gia uỷ quyền thực hiện chủ quyền của Nhà nước trên hai quần đảo bằng cách đặt ra các quy định thưởng phạt nghiêm minh, thực hiện nghĩa vụ trong việc bảo đảm an toàn bằng hàng hải quốc tế, cứu hộ người bị hại… Nhà nước đã đáp ứng được đầy đủ các tiêu chuẩn của việc thụ đắc lãnh thổ vô chủ vào những thời kỳ đó.

Như vậy, nguyên tắc thực hiện liên tục và hoà bình quyền lực nhà nước tạo ra danh nghĩa chủ quyền đã được chấp nhận trên thực tiễn quốc tế khi giải quyết các tranh chấp lãnh thổ. Vì thế Việt Nam có thể sử dụng nguyên tắc này trong trường hợp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì trong lịch sử Nhà nước Việt Nam đã thông qua hai đội Hoàng Sa và Bắc Hải thực hiện liên tục và hoà bình quyền lực của mình đối với hai quần đảo và như vậy đã xác lập chủ quyền ở đó.

>>Khẳng định chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa và Trường Sa

>>Đoàn đại biểu VCCI thăm quần đảo Trường Sa và nhà giàn DK-1

Bác bỏ một số quan điểm chủ quyền phi lý

Chủ quyền quốc gia đối với đảo không dựa trên tính kế cận: Phân tích quan điểm này nhằm bác bỏ quan điểm của Philippines hiện nay đưa ra tính kế cận trong quá trình đòi yêu sách chủ quyền, Philippines cho rằng một phần của quần đảo Trường Sa nằm gần Philippines nên Philippines có chủ quyền. Đồng thời phân tích quan điểm này nhằm bác bỏ quan điểm của Trung Quốc cho rằng quần đảo Hoàng Sa nằm gần Trung Quốc hơn nên chủ quyền thuộc về Trung Quốc.

Trong thực tiễn các quy phạm pháp luật quốc tế đã không có một điều khoản nào quy định quốc gia ven biển có đảo nằm gần là thuộc về chủ quyền của quốc gia đó, một đảo nằm gần một quốc gia ven biển, chủ quyền vẫn có thể thuộc về nước khác không phụ thuộc vào vị trí địa lý, tính kế cận.

Trong thực tiễn tập quán quốc tế và những nguyên tắc của luật quốc tế hiện đại đã khẳng định chủ quyền của một quốc gia đối với các vùng lãnh thổ phụ thuộc vào quá trình xác lập chủ quyền về mặt nhà nước của quốc gia đó chứ không phụ thuộc vào tính kế cận.

Ví dụ, các đảo Jersey, Guernsey, Alderney và Shark nằm gần Pháp hơn Anh, nhưng chủ quyền thực tế lại thuộc về Anh, đảo Phú Quốc nằm gần Campuchia hơn Việt Nam, nhưng chủ quyền thực tế thuộc về Nhà nước Việt Nam. Sự phát triển của luật pháp quốc tế hiện đại và luật biển quốc tế đến sự hình thành những quy định của UNCLOS không có điểm nào quy định lợi thế về mặt vị trí địa lý của một quốc gia đối với sự khẳng định chủ quyền về một vùng lãnh thổ như các đảo đá, bãi ngầm, bãi cạn.

Xét về góc độ luật pháp quốc tế thì những quan điểm vị trí địa lý kế cận không có giá trị pháp lý, bởi trong các quy phạm của hệ thống luật pháp quốc tế hiện đại, luật biển quốc tế và những quy định của UNCLOS không có một điều khoản nào quy định về tính kế cận, và đương nhiên một đảo nằm gần một quốc gia ven biển chưa hẳn thuộc chủ quyền về quốc gia đó, đó cũng là lẽ đương nhiên.

Duy nhất chỉ Việt Nam có chứng cứ phù hợp

Xét về mặt nhà nước xác lập chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì duy nhất chỉ có Việt Nam là chứng cứ phù hợp với các nguyên tắc của luật quốc tế về xác lập chủ quyền đối với những vùng lãnh thổ. Với những cơ sở pháp lý thể hiện qua các phương diện như: sử học, khảo cổ học, luật pháp và văn hoá biển đã chứng minh một cách rõ ràng đó là vào nửa đầu thế kỷ XVII khi Việt Nam đã thiết lập chủ quyền về mặt nhà nước đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì chưa có bất kỳ một quốc gia nào trong khu vực và trên thế giới tiến hành xác lập chủ quyền về mặt nhà nước ở hai quần đảo đó.

Trong thời điểm Chúa Nguyễn thực thi chủ quyền về mặt nhà nước đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã không có một quốc gia nào khẳng định chủ quyền về mặt nhà nước đối với hai quần đảo này.

Có thể bạn quan tâm

  • Ươm thêm mầm xanh cho Trường Sa

    04:00, 19/08/2023

  • Khẳng định chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa và Trường Sa

    10:30, 15/07/2023

  • Tự hào Trường Sa!

    10:00, 17/05/2023

  • Ký ức tháng tư Trường Sa

    05:30, 30/04/2023

Trung tá TS. NGUYỄN THANH MINH – Bộ tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam (Bộ Quốc phòng)