Quản trị Quốc gia vì hạnh phúc nhân dân

TS. NGUYỄN VĂN ĐÁNG - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh 03/02/2022 05:35

Khái niệm “Quản trị quốc gia”, lần đầu tiên được sử dụng trong văn kiện đại hội XIII và đặt nó trong quan hệ với mục tiêu “hạnh phúc của nhân dân”.

Đại hội XIII đã khẳng định “lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, và chế độ Xã hội Chủ nghĩa”. 

>>Quản trị quốc gia trong trạng thái bất thường

Nhất quán nguyên lý phát triển đất nước 

Trong tiến trình đó, xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại và hiệu quả được coi là một nhiệm vụ đột phá. Đây là sự tiếp nối và hoàn thiện mục đích lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những năm sắp tới. Bởi ngay từ năm 1946, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.

Nếu phân tích các Văn kiện đại hội XIII thì chúng ta sẽ thấy sự nhất quán về nguyên lý phát triển đất nước. Theo đó, Đảng đề ra tầm nhìn lãnh đạo: đến năm 2045, đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao. Để đạt được sự phát triển bền vững, Đảng nhấn mạnh nguyên tắc: tăng trưởng kinh tế phải đi liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Chúng ta hướng đến một một cấu trúc xã hội phát triển cân bằng, bao trùm, và quan hệ hài hòa giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội.

Đại hội XIII cũng khẳng định mục đích phát triển đất nước là vì con người. Tức là mọi sự thay đổi dưới sự lãnh đạo của Đảng chỉ được coi là thành công và có ý nghĩa nếu giúp nhân dân thực sự có được cuộc sống “hạnh phúc”. Điều này thể hiện qua sự bổ sung nguyên tắc “Nhân dân thụ hưởng” vào phương châm chung mà chúng ta đã thực hiện bấy lâu nay: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Tư duy quản trị hiện đại nhấn mạnh sự thỏa mãn các lợi ích đa dạng trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách. Có nghĩa là, các quyết định chính sách không chỉ dựa trên lợi ích công như trước đây mà tất cả các lợi ích đa dạng đều được tôn trọng và đáp ứng. Đây chính là yếu tố có thể bảo đảm “hạnh phúc” cho mọi tầng lớp nhân dân.

Khác với tư duy quản lý nhà nước truyền thống, tư duy quản trị đem đến khả năng kết hợp giữa Chính quyền với Doanh nghiệp và các tổ chức Chính trị xã hội, cũng như các tổ chức xã hội; các chủ thể trong và ngoài nước trong quá trình giải quyết các vấn đề mang tính tập thể. Các nhà lãnh đạo và quản lý sẽ có thể kết hợp ưu điểm của cơ chế hành chính với cơ chế thị trường và nguyên tắc tự nguyện để hiện thực hóa chủ trương, đường lối lãnh đạo, hoạch định và và thực thi chính sách. Các mối quan hệ mạng lưới, với tính chất bình đẳng và hợp tác, sẽ giúp huy động được nguồn lực và ưu điểm của các chủ thể khác nhau trong hoạch định và thực thi chính sách.

Công nhân, người lao động mua sắm tại các gian hàng phiên chợ nghĩa tình do Liên đoàn Lao động Q.6 tổ chức ngày 8.1. Ảnh: Đào Ngọc Thạch

Công nhân, người lao động mua sắm tại các gian hàng phiên chợ nghĩa tình do Liên đoàn Lao động Q.6 tổ chức ngày 8.1. Ảnh: Đào Ngọc Thạch

>>Nâng cao năng lực quản trị quốc gia để “bứt phá” sau đại dịch

Hoá giải thách thức

Thực tế, quá trình xây dựng nền quản trị quốc gia hiện tại cũng còn nhiều thách thức. Theo tôi, thách thức đầu tiên là về nhận thức. Chúng ta có truyền thống coi trọng vai trò quản lý của nhà nước, nhấn mạnh sự can thiệp của chính quyền vào đời sống kinh tế - xã hội. Trong khi đó, tư duy quản trị đòi hỏi sự tôn trọng vai trò của các chủ thể ngoài nhà nước. Điều này đặt ra yêu cầu với các nhà lãnh đạo ở mọi cấp độ phải coi các chủ thể ngoài nhà nước là đối tác bình đẳng trong quan hệ với chính quyền.

Thách thức đáng kể thứ hai là năng lực thực sự của các chủ thể ngoài nhà nước ở nước ta hiện nay. Sau hơn ba thập kỷ đổi mới, khu vực tư nhân và cộng đồng xã hội ở nước ta đã có sự trưởng thành rõ rệt. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc các chủ thể tư nhân và cộng đồng đã đủ khả năng tham gia vào các hoạt động quản trị đất nước.

Thách thức thứ ba là chúng ta nói chung còn khá lạ lẫm với tư duy quản trị, vốn có nguồn gốc từ các quốc gia có truyền thống và trình độ phát triển hơn chúng ta. Thực tế này đòi hỏi các nhà nghiên cứu cũng như các nhà lãnh đạo và quản lý phải bám sát thực tế đất nước, coi trọng những đặc thù bối cảnh và trình độ phát triển trong quá trình xây dựng mô hình quản trị quốc gia gắn với Việt Nam.

Từ góc nhìn quản trị thì đại hội XIII tiếp tục khẳng định truyền thống của Việt Nam – đó là quản trị nhà nước. Nguyên lý thể hiện mô hình quản trị nhà nước là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Đó là hệ thống quản trị với Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò hạt nhân lãnh đạo; các thiết chế nhà nước thực hiện chức năng quản lý; Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội giữ vai trò cầu nối giữa nhân dân với nhà nước.

Theo tôi, để xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại và hiệu quả thì chúng ta có thể điều chỉnh nguyên lý hệ thống theo hướng: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước kiến tạo, Doanh nghiệp làm giàu, Nhân dân làm chủ”. Sự bổ sung này đòi hỏi Nhà nước phải có thể kiến tạo phát triển, đồng thời đánh giá đúng hơn tầm quan trọng của các Doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, qua đó bảo đảm cuộc sống cho người lao động và làm giàu cho đất nước.

Có thể bạn quan tâm

  • Quản trị quốc gia trong trạng thái bất thường

    04:40, 03/01/2022

  • Diễn đàn cải cách 2021-2025 (Bài 18): Quản trị quốc gia trong thế giới biến đổi

    04:10, 18/12/2021

  • DIỄN ĐÀN CẢI CÁCH 2021-2025 (Bài 17): Quản trị quốc gia vì hạnh phúc của nhân dân

    04:10, 20/11/2021

  • Nâng cao năng lực quản trị quốc gia để “bứt phá” sau đại dịch

    05:15, 28/10/2021

  • Bầu cử Quốc hội và khát vọng Việt Nam (Bài 2): Hướng đến nền quản trị quốc gia hiện đại

    07:00, 09/05/2021

TS. NGUYỄN VĂN ĐÁNG - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh