Chính phủ quyết kéo giảm khoản chi phí chiếm 21% GDP - chi phí logistics

Song Nhi 16/04/2018 08:18

Hôm nay (16/4), một hội nghị lớn về logistics được tổ chức. Đây cũng là một trong số hàng chục hội nghị chuyên đề bàn về những giải pháp, quyết sách chỉ đạo tầm quốc gia trong năm 2018 mà Chính phủ yêu cầu.

Có thể bạn quan tâm

  • Chi phí logistics tăng cao vì... 14.300 tỷ đồng kiểm tra chuyên ngành

    Chi phí logistics tăng cao vì... 14.300 tỷ đồng kiểm tra chuyên ngành

    08:44, 21/03/2018

  • Ba giải pháp giảm chi phí logistics

    Ba giải pháp giảm chi phí logistics

    09:50, 22/12/2017

  • Chi phí logistics tại Việt Nam cao gấp 3 Singapore

    Chi phí logistics tại Việt Nam cao gấp 3 Singapore

    07:03, 16/08/2017

Mục tiêu của Chính phủ quyết tâm kéo giảm chi phí logistics hiện đang chiếm tới gần 21% GDP của Việt Nam – tương đương hơn 46 tỷ USD theo quy mô GDP năm 2017. 

Trước đó, trong năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 200 phê duyệt kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics. Kế hoạch này đặt mục tiêu đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 8%-10%, tốc độ tăng trưởng dịch vụ đạt 15%-20%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50%-60%, chi phí logistics giảm xuống tương đương 16%-20% GDP, xếp hạng theo chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) trên thế giới đạt thứ 50 trở lên.

Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), chỉ số LPI năm 2016 của Việt Nam đứng thứ 64/160 nước. Tốc độ phát triển bình quân hàng năm của ngành logistics Việt Nam khoảng 14-16%, là một trong những ngành dịch vụ tăng trưởng đều và vững chắc của Việt Nam trong thời gian qua.

Tuy nhiên, vấn đề nội cộm nhất là chi phí logistics của Việt Nam còn ở mức cao. Theo nghiên cứu của WB, chi phí logistics của Việt Nam tương đương 20,9 % so với GDP, trong đó chi phí vận tải chiếm khoảng 59%.

Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) - ông Ousmane Dione cho rằng tính theo tỉ trọng GDP, chi phí logistics của Việt Nam cao gần gấp đôi so với các nền kinh tế phát triển và cao hơn mức bình quân toàn cầu 14%.

Các chuyên gia cũng cho rằng tiềm năng để ngành logistics ở Việt Nam đang có đà phát triển rất lớn. Đặc biệt, khi Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) chính thức có hiệu lực sẽ là cơ hội lớn cho ngành logistics. Vấn đề là các doanh nghiệp có nắm bắt được cơ hội hay không.

Trên thực tế, Việt Nam đang có lợi thế là sở hữu phần lớn kho bãi phục vụ dịch vụ logistics và nắm bắt được thị trường, tâm lý khách hàng, địa lý, thời tiết, văn hóa của người bản địa hơn doanh nghiệp nước ngoài.

Bên cạnh đó, các cảng biển Việt Nam đã đầu tư, xây dựng quy mô lớn, có khả năng tiếp nhận tàu có tải trọng trên 100.000 tấn; có 70 đường bay quốc tế... Việt Nam lại đang trong giai đoạn nhập siêu nguyên vật liệu và máy móc thiết bị, đó chính là tiềm năng khá tốt cho các công ty logistics của Việt Nam phát triển.

Nếu như trước đây các nhà nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu mua hàng theo điều kiện CIF (nghĩa là người bán quyết định người chuyên chở), thì nay các doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam đang chuyển dần sang hình thức FOB (người mua quyết định việc chuyên chở). Điều này tạo ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp logistics Việt Nam khai thác.

Tuy nhiên hiện nay, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đang phải sử dụng dịch vụ logistics với những chi phí rất cao. Theo các chuyên gia, vận tải đa phương thức chưa phát triển, quy mô doanh nghiệp logistics quá nhỏ… là những lý do khiến ngành logistics chưa thể bứt phá.

Theo Bộ GTVT, tại Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới, chi phí vận tải luôn chiếm tỉ lệ cao nhất trong tổng chi phí logistics, cụ thể tỷ lệ này tại các nước như sau: Việt Nam khoảng 59%, Mỹ khoảng 63,6%, Thái Lan khoảng 53,5%.

Đối với từng mặt hàng khác nhau chi phí vận tải chiếm tỷ lệ khác nhau. Chẳng hạn với mặt hàng thủy sản xuất khẩu, chi phí vận tải chiếm 51%, lưu kho chiếm 20%, xếp dỡ 23%, đóng gói 5% và cảng phí 1%; mặt hàng may mặc xuất khẩu chi phí vận tải là 61%, lưu kho 9%, xếp dỡ 19%, đóng gói 9% và cảng phí 2%; gạo xuất khẩu chi phí vận tải chiếm 58%, lưu kho chiếm 10%, xếp dỡ 24%, đóng gói 7% và cảng phí chiếm 1%; cây ăn trái chi phí vận tải chiếm 61%, lưu kho 14%, xếp dỡ 20%, đóng gói 5% và cảng phí là 1%.

Song Nhi