Tháo “vòng kim cô” cho nông nghiệp
Khu vực nông nghiệp nông thôn đang “khát” cả vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, phát triển bất động sản và vốn đầu tư cho tiêu dùng.
>>> Canh cánh nỗi lo bị “đòi ruộng”
Theo báo cáo chính thức, tỷ lệ vốn đầu tư hàng năm cho nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản chỉ chiếm khoảng 5 - 6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội nên phần vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn nói chung, phát triển bất động sản nông nghiệp nói riêng còn khoảng cách rất xa so với nhu cầu và lại càng giãn rộng nếu so sánh với phần vốn đầu tư dành cho bất động sản khu vực công nghiệp xây dựng và dịch vụ.
Vấn đề này thể hiện trong cả vốn đầu tư Nhà nước, vốn đầu trực tiếp nước ngoài cũng như vốn đầu tư ngoài nhà nước, vốn tín dụng ngân hàng và trong chừng mực nào đó cả trong ưu đãi đầu tư.
Tháo “vòng kim cô”
Tất cả những nhu cầu tất yếu khách quan đó của hàng chục triệu hộ nông dân Việt Nam, hàng vạn trang trại và doanh nghiệp đang bị hạn chế bởi nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau song nguyên nhân cơ bản nhất là hạn chế về thu nhập.
Có thể bạn quan tâm |
Mặc dù đến cuối năm 2009, Việt Nam đã gia nhập những nước có mức thu nhập trung bình với bình quân thu nhập đầu người năm 2018 đã đạt 2.587 USD/năm song tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam vẫn còn cao, hơn nữa đại đa số số hộ nghèo đó lại ở khu vực nông nghiệp nông thôn. Năm 2017, trong khi số hộ nghèo khu vực đô thị chỉ có 2,7% thì ở khu vực nông thôn là 10,8% (tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước là 7,9%).
Có rất nhiều lý do khác nhau để giải thích cho những bức xúc về tiếp cận tín dụng nói riêng, có vốn để sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống sinh hoạt nói chung song tựu chung lại là những hạn chế nằm trong phương thức sản xuất nông nghiệp của Việt Nam hiện nay gắn với cái “vòng kim cô” là thu nhập thấp, nghèo nên thiếu vốn để phát triển sản xuất nông nghiệp theo chiều sâu, đầu tư vào máy móc công nghệ để tăng năng suất lao động, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, đầu tư vào con người để nâng cao trình độ,...
Cũng vì nghèo nên thiếu tài sản có giá trị để thế chấp cầm cố vay vốn ngân hàng, phải vay vốn với lãi suất thực tế cao hơn... nên khó có thể thoát nghèo, khó có cơ hội nâng cao thu nhập và nông nghiệp Việt Nam vẫn dậm chân tại chỗ, khó có thể tạo ra và thu hút các nguồn lực tài chính đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn.
Chừng nào chúng ta chưa phá được cái “vòng kim cô” đó thì nông nghiệp nông thôn cũng như các hộ nông dân Việt Nam còn khó có thể phát triển được và khoảng cách giữa nông thôn với thành thị, giữa nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ càng khó có thể thu hẹp.
Lấy hộ nông dân làm trung tâm
Cần thực thi chính sách tín dụng lấy hộ nông dân làm trung tâm, cần cơ cấu lại tín dụng nhằm tạo điều kiện thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp quy mô lớn đi đôi với ứng dụng công nghệ cao - xu thế tất yếu của nông nghiệp Việt Nam trong những năm tới.
Một mặt cần tiếp tục tháo gỡ những khó khăn vướng mắc nhằm tăng cường quy mô tín dụng cho nông nghiệp nông thôn đi đôi với phối hợp nguồn vốn tín dụng với các nguồn lực tài chính đa dạng khác để tạo bước đột phá trong chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp gắn với sản xuất lớn với công nghệ cao, tăng năng suất và hiệu quả của sản xuất nông nghiệp.
Măt khác, cần cơ cấu lại tín dụng cho phù hợp với mô hình sản xuất lớn, với những liên kết kinh tế mới, những chuỗi liên kết khép kín từ cung cấp đầu vào, sản xuất nông nghiệp đến tiêu thụ sản phẩm gắn với tăng hàm lượng khoa học công nghệ và giá trị gia tăng trong từng khâu của chuỗi giá trị nông sản.
Theo đó, tín dụng cho nông nghiệp nông thôn, cả cơ cấu cũng như chính sách và cơ chế cần thay đổi theo hướng lựa chọn đúng khách hàng cho vay, tỷ lệ cho vay và điều kiện cho vay (thế chấp, bảo lãnh tín dụng, lãi suất, thời hạn, mức độ ưu đãi) tương ứng phù hợp với từng đối tượng trong mô hình sản xuất lớn và chuỗi liên kết sản xuất nông nghiệp để đảm bảo cho vay đúng đối tượng, vừa tránh chồng chéo, trùng lặp, vừa đảm bảo hiệu quả sử dụng và quản lý tốt rủi ro tín dụng.
Đặc biệt là chính sách tín dụng nông nghiệp nông thôn phải góp phần củng cố và thắt chặt mối quan hệ ràng buộc liên kết giữa các nhà trong chuỗi liên kết đồng thời góp phần phân bổ lợi ích hài hoà giữa các khâu trong chuỗi giá trị nông sản, chú trọng đảm bảo lợi ích của người nông dân, giúp người nông dân ổn định và tăng thu nhập dựa trên tăng năng suất và giá trị sản xuất nông nghiệp.
Có thể bạn quan tâm