[eMagazine] 10 Ngân hàng Trung ương trên thế giới đã tăng lãi suất ra sao?
Trong cuộc chạy đua để vượt qua lạm phát gia tăng, các ngân hàng trung ương ở Hoa Kỳ, Anh và Úc, đều đã tăng lãi suất trong tuần này.
Lạm phát cao liên tục cũng khiến Iceland phải nâng lãi suất thêm một điểm phần trăm vào ngày 4/5 và Ấn Độ đã đưa ra một đợt tăng lãi suất ngoài dự kiến. Các ngân hàng trung ương trên toàn thế giới đang có xu hướng tăng lãi suất, trong lúc lạm phát đang ở mức cao nhất trong nhiều thập niên. Giá cả tăng kể từ khi các nền kinh tế mở cửa trở lại sau đại dịch, và sau căng thẳng tại Ukraine làm trầm trọng thêm tình trạng chi phí năng lượng vốn đã cao.
Một số ngân hàng trung ương khác chẳng hạn như Ngân hàng Trung ương Anh, lo lắng nền kinh tế của họ đang tiến tới suy thoái, nhưng điều đó không ngăn họ báo hiệu nhiều đợt tăng giá sắp tới.
Dưới đây là một cái nhìn về nơi các nhà hoạch định chính sách đứng trên con đường thoát khỏi kích thích thời đại đại dịch, được xếp hạng theo khía cạnh “diều hâu”.
Ngân hàng trung ương Na Uy, Norges, đã giữ lãi suất vào ngày 5/5 sau khi tăng thêm một phần tư lên 0,75% vào tháng 3, khi họ công bố kế hoạch thắt chặt chính sách nhanh hơn so với kế hoạch trước đó.
Ngân hàng này có kế hoạch tăng một lần nữa vào tháng 6 và tăng lãi suất lên 2,50% vào cuối năm 2023, với 3 lần tăng so với dự kiến trước đó.
Ngân hàng Dự trữ New Zealand là một trong những ngân hàng trung ương “diều hâu” nhất thế giới.
Họ đã tăng tỷ giá tiền mặt vào tháng trước thêm 0,5% lên 1,5%, mức tăng lớn nhất trong hai thập kỷ và là lần tăng thứ 4 trong chu kỳ này. Với lạm phát ở mức cao nhất trong 30 năm, các thị trường kỳ vọng sẽ tăng thêm 50 bps trong tháng này - RBNZ dự báo tỷ lệ sẽ đạt đỉnh khoảng 3,35% vào cuối năm 2023.
Ngân hàng Trung ương Canada (BoC) bắt đầu chu kỳ tăng lãi suất vào tháng 3 và tăng lãi suất vào tháng trước từ 0,5% lên 1%, động thái lớn nhất trong hơn hai thập kỷ qua.
Tổ chức này cũng đang để trái phiếu đáo hạn lăn bánh khỏi bảng cân đối kế toán của mình. Thống đốc BoC Tiff Macklem cho rằng lãi suất vẫn còn thấp hơn nhiều so với mức trung lập, ước tính từ 2% -3%. Thị trường kỳ vọng lãi suất sẽ đạt 3% vào cuối năm, với một mức tăng nữa điểm được thấy vào ngày 1/6.
Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) đã tăng lãi suất lên 1% vào ngày 5/5, mức cao nhất kể từ năm 2009, để kiềm chế lạm phát mà hiện nay dự báo sẽ lên tới 10% trong năm nay.
Các nhà hoạch định chính sách cũng cứng rắn lên tiếng về sự cần thiết phải thắt chặt hơn nữa trong những tháng tới, đến nỗi hai trong số chín nhà thiết lập tỷ giá BoE gọi là hướng dẫn quá mạnh trước nguy cơ nước Anh rơi vào suy thoái.
Thị trường kỳ vọng lãi suất sẽ đạt 2% -2,25% vào cuối năm 2022.
Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED) hôm 4/4 đã tăng lãi suất cơ bản lên 0,5%, mức tăng mạnh nhất trong 22 năm và các thị trường cảm thấy nhẹ nhõm khi FED không thực hiện động thái tăng tới 0,75%.
Tuy nhiên, FED cho biết họ đã sẵn sàng tăng thêm 0,5% nữa và có kế hoạch vào tháng tới để bắt đầu giảm số tài sản trị giá 9 nghìn tỷ USD được tích lũy trong đại dịch COVID-19 để giúp kiểm soát lạm phát.
Ngân hàng Quốc gia Úc (RBA) đã tăng lãi suất thêm 0,25% lên 0,35% vào ngày 3/5 và có thể sẽ tiếp tục tăng trong tương lai. Mặc dù trước đó, RBA đã khẳng định sẽ không tăng lãi suất, tuy nhiên, động thái mới đây cho thấy RBA đã gia nhập xu hướng chung của nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới.
Sự thay đổi chính sách được đưa ra sau khi dữ liệu cho thấy lạm phát tiêu dùng quý đầu tiên tăng vọt lên mức cao nhất 20 năm là 5,1%. Lạm phát cơ bản đạt 3,7%, cao hơn mức mục tiêu RBA lần đầu tiên kể từ năm 2010.
Định giá tương lai chỉ ra tỷ lệ đạt 2,5% vào cuối năm 2022 và 3,5% vào giữa năm 2023, đây sẽ là chu kỳ thắt chặt RBA tích cực nhất trong lịch sử hiện đại.
Đến muộn với cuộc chiến lạm phát, ngân hàng Riksbank của Thụy Điển tuần trước đã tăng lãi suất 0,25% để kiềm chế lạm phát đang ở mức cao nhất kể từ năm 1991 ở mức trên 6%.
Lãi suất của Riksbank hiện là tích cực lần đầu tiên kể từ năm 2014. Gần đây nhất là vào tháng 2, lãi suất dự kiến sẽ không tăng cho đến năm 2024. Bây giờ nó dự kiến sẽ tăng thêm hai hoặc ba lần nữa trong năm nay, với nhiều hơn nữa trong năm tới tỷ lệ trên 1%.
Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) chủ trương theo hướng ôn hòa đã trở nên “diều hâu” hơn khi lạm phát cao kỷ lục ở mức 7,5%.
Isabel Schnabel, thành viên Hội đồng quản trị của ECB, cho biết tỷ giá tuần này có thể cần phải tăng ngay sau tháng Bảy. Tiền thân của bất kỳ đợt tăng lãi suất nào phải là thời điểm kết thúc việc mua trái phiếu và điều này có thể đến vào cuối tháng 6, bà nói thêm.
Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ (SNB) vẫn kiên quyết ôn hòa mặc dù lạm phát của Thụy Sĩ đã tăng lên 2,4% trong tháng 3, cao hơn nhiều so với mục tiêu ổn định giá của SNB là 0% -2%.
Họ đã từ chối báo hiệu tỷ giá cao hơn, nhấn mạnh rằng đồng Franc mạnh sẽ giúp bảo vệ chống lại lạm phát.
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) hiện vẫn theo xu hướng "bồ câu". Tuần trước, họ đã củng cố cam kết giữ lãi suất ở mức cực thấp bằng cách cam kết mua số lượng trái phiếu không giới hạn để bảo vệ mục tiêu lợi suất trái phiếu. Điều đó đã đưa đồng Yên xuống mức thấp nhất trong hai thập kỷ so với đồng bạc xanh.
Giá tiêu dùng cốt lõi của Nhật Bản đã tăng với tốc độ nhanh nhất trong hơn hai năm vào tháng Ba, nhưng nền kinh tế yếu kém có nghĩa là BOJ không cần vội vàng thắt chặt chính sách.
Xu hướng tăng lãi suất còn phía trước
Có thể thấy động thái tăng lãi suất của FED đã phần nào gây phản ứng dây chuyền đến các ngân hàng châu Âu trước bối cảnh lạm phát gia tăng trên toàn khu vực. Lạm phát gia tăng từ trước nhưng cuộc xung đột vũ trang Nga – Ukraine đã đẩy tình trạng trở nên nghiêm trọng hơn khi nguồn cung nhiều mặt hàng đứt gãy chưa thể thay thế, giá năng lượng “leo thang”.
Các nhà kinh tế dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ chỉ đạt trung bình 3,3% trong năm nay, giảm so với mức 4,1% được dự đoán hồi tháng Một - trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng Ukraine. Lạm phát toàn cầu được dự báo ở mức 6,2%, cao hơn 2,25 điểm phần trăm so với dự báo tháng Một.
Các chuyên gia dự báo lạm phát toàn cầu sẽ tăng trong năm tới, trong khi kỳ vọng tăng trưởng đang xấu đi, đồng nghĩa với việc giảm lợi nhuận kinh doanh và sức mua của các hộ gia đình, và các hộ gia đình thu nhập thấp vẫn sẽ là đối tượng chịu tác động nặng nề nhất.