VCCI: Quy định tỷ lệ sở hữu tối đa ngân hàng không thực sự phát huy tác dụng
Theo VCCI, tỷ lệ sở hữu tối đa tại ngân hàng ở các mức 5%, 15% và 20% như tại Việt Nam hiện nay đã tương đối thấp so với nhiều quốc gia trên thế giới...
>>>Ngăn sở hữu chéo trong ngân hàng: Cần tăng chế tài xử phạt
Trả lời Công văn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) về việc đề nghị góp ý Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) (gọi tắt là Dự thảo), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), sau khi tham vấn doanh nghiệp và chuyên gia, đã có một số ý kiến:
Giới hạn tỷ lệ sở hữu: Các cổ đông vẫn liên kết với nhau
Điều 54 của Dự thảo đề xuất giảm tỷ lệ sở hữu tối đa tại một tổ chức tín dụng so với quy định hiện hành. Theo đó, tỷ lệ sở hữu tối đa của cá nhân giảm từ 5% xuống 3%, của tổ chức giảm từ 15% xuống 10% và của nhóm cổ đông có liên quan giảm từ 20% xuống 15%. Sự thay đổi này, cùng với việc mở rộng khái niệm người có liên quan, được suy đoán là nhằm chống lại tình trạng sở hữu chéo, tăng tính đại chúng trong sở hữu các tổ chức tín dụng, từ đó cải thiện tính minh bạch, giảm xung đột lợi ích khi cấp tín dụng và tăng tính an toàn cho các ngân hàng.
VCCI cho rằng, mục tiêu tăng tính an toàn cho hệ thống ngân hàng là cần thiết, song biện pháp tiếp tục giảm tỷ lệ sở hữu tối đa dường như không phải là giải pháp phù hợp vào thời điểm này.
Đối với quy định tỷ lệ sở hữu tối đa ở các mức 5%, 15% và 20% như tại Việt Nam hiện nay, theo VCCI, đã tương đối thấp so với nhiều quốc gia trên thế giới. Mặc dù vậy, tình trạng cấp tín dụng tập trung cho một nhóm khách hàng có liên quan vẫn thường xuyên diễn ra, làm tăng rủi ro của hệ thống. Như vậy, dường như quy định về tỷ lệ sở hữu tối đa đã không thực sự phát huy tác dụng, các cổ đông dù không rơi vào trường hợp người có liên quan theo định nghĩa của luật, vẫn có liên kết chặt chẽ với nhau để đồng thuận cấp tín dụng rất tập trung. Kết luận của Thanh tra Chính phủ đầu tháng 7/2023 cho thấy tình trạng cấp tín dụng tập trung vẫn diễn ra tại một số ngân hàng.
Tại dự thảo luật Tổ chức tín dụng sửa đổi, đối với quy định sở hữu của cổ đông trong ngân hàng dự kiến cá nhân không được sở hữu quá 3% vốn điều lệ một tổ chức tín dụng, quy định hiện nay là 5%. Cổ đông là tổ chức hiện nay đang 15% thì dự kiến không được sở hữu vượt quá 10% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng, trừ ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt hoặc sở hữu của nhà nước tại ngân hàng. Tỷ lệ sở hữu tối đa của nhóm cổ đông và người liên quan cũng được đề xuất giảm từ 20% xuống 15%. Theo NHNN, việc giảm những tỷ lệ trên giúp tăng cường tính đại chúng của ngân hàng, chống sở hữu chéo, chống thao túng, hạn chế việc chi phối và thâu tóm ngân hàng. Đồng thời ngăn lạm dụng quyền quản trị, chống lạm quyền cấp tín dụng và gia tăng tiếp cận vốn ngân hàng cho người dân.
"Tỷ lệ sở hữu của một số cổ đông cao không phải là vấn đề trực tiếp gây mất an toàn hệ thống ngân hàng. Tỷ lệ sở hữu cao dễ dẫn đến xung đột lợi ích, khiến hoạt động cấp tín dụng thường được điều hướng vào cho các khách hàng có liên quan đến cổ đông lớn mà không dựa trên các nguyên tắc và chuẩn mực phù hợp, từ đó mới gây mất an toàn cho ngân hàng", VCCI phân tích.
Trong khi đó, tỷ lệ sở hữu tối đa quá thấp cũng không thực sự tốt cho việc quản trị ngân hàng. Khi sở hữu tỷ lệ vốn quá thấp, các cổ đông sẽ không thực sự gắn bó với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Các cổ đông lớn thường không chỉ đầu tư tiền bạc mà còn mang theo cả công nghệ, quy trình quản trị vào các ngân hàng, giúp các ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn.
Thêm vào đó, việc thay đổi pháp luật theo hướng giảm tỷ lệ sở hữu sẽ khiến một số cổ đông hiện hữu phải bán lại cổ phần của họ. Điều 198.8 quy định chuyển tiếp của Dự thảo cũng yêu cầu các cổ đông hiện hữu phải có phương án và lộ trình giảm tỷ lệ sở hữu theo Điều 54 phù hợp với hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước. Điều này không bảo đảm nguyên tắc bảo vệ quyền tài sản theo Hiến pháp. Một số quốc gia khác khi có sự thay đổi quy định pháp luật theo hướng giảm tỷ lệ sở hữu tại các ngân hàng thường chỉ áp dụng cho các giao dịch mua bán cổ phần sau khi quy định mới có hiệu lực, mà không bắt buộc các cổ đông hiện hữu phải bán cổ phần của mình.
Với những lý do đó, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc sửa đổi quy định theo hướng:
Thứ nhất, thay vì giảm tỷ lệ sở hữu, đề nghị quy định chặt chẽ hơn về điều kiện và thủ tục cấp tín dụng cho khách hàng liên quan với cổ đông sở hữu từ 3% trở lên đối với cá nhân, 5% đối với tổ chức và 10% đối với nhóm cổ đông đông.
>>TIN NÓNG CHÍNH PHỦ: Quy định sở hữu chéo giữa các công ty trong nhóm công ty
Thứ hai, trong trường hợp vẫn quy định giảm tỷ lệ sở hữu thì không nên áp dụng hồi tố đối với các trường hợp đã sở hữu trước ngày luật này có hiệu lực...
Hạn chế thành viên HĐQT: Mấu chốt nằm ở kiểm soát các giao dịch
Điều 34.2 của Dự thảo có quy định hạn chế thành viên hội đồng quản trị của tổ chức tín dụng không đồng thời là người quản lý, điều hành doanh nghiệp khác. Quy định này được suy đoán là nhằm tránh xung đột lợi ích khi thành viên hội đồng quản trị (HĐQT) có thể gây ảnh hưởng đến các quyết định của ngân hàng nhằm có lợi cho doanh nghiệp khác của mình. Tuy nhiên, quy định này cần được cân nhắc một cách thận trọng hơn vì có thể sẽ gây nhiều vướng mắc trên thực tế. Tham gia hội đồng quản trị của tổ chức tín dụng không phải là một công việc toàn thời gian, nên những người này thường có công việc khác.
Theo VCCI, việc hạn chế điều kiện thành viên hội đồng quản trị như Dự thảo có thể dẫn đến việc khó tìm được người đủ năng lực, kinh nghiệm, kiến thức để tham gia hội đồng quản trị, đặc biệt đối với thành viên độc lập. Chúng tôi cho rằng, mấu chốt vấn đề nằm ở việc kiểm soát các giao dịch, nhất là giao dịch cho vay của tổ chức tín dụng đối với các doanh nghiệp khác mà thành viên hội đồng quản trị kiêm nhiệm quản lý, điều hành. Do đó, biện pháp phù hợp hơn là quy định chặt chẽ về điều kiện và thủ tục cấp tín dụng đối với các doanh nghiệp mà thành viên hội đồng quản trị có lợi ích liên quan.
Sử dụng vốn vay đúng mục đích: Đề nghị làm rõ quy định
Điều 92.4 của Dự thảo quy định khách hàng có trách nhiệm sử dụng vốn vay đúng mục đích đã cam kết. Việc sử dụng vốn vay đúng mục đích đã cam kết là nghĩa vụ dân sự của khách hàng đối với tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, quy định như vậy dễ dẫn đến việc hình sự hoá quan hệ dân sự kinh tế khi có ý kiến cho rằng việc sử dụng vốn vay không đúng mục đích là yếu tố cấu thành các tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Do đó, để tránh hình sự hoá quan hệ dân sự kinh tế, đề nghị cơ quan soạn thảo làm rõ quy định này theo hướng: Khách hàng có nghĩa vụ sử dụng vốn vay đúng cam kết với ngân hàng. Khách hàng có quyền thay đổi mục đích sử dụng vốn nếu được ngân hàng đồng ý hoặc ngân hàng biết mà không phản đối trong một khoảng thời gian hợp lý, văn bản góp ý của VCCI nêu rõ.
Liên quan đến Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng, báo cáo thẩm tra về dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) của Ủy ban Kinh tế Quốc hội vào tháng 5 cho biết, hiện còn nhiều ý kiến chưa thống nhất xung quanh vấn đề xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu... Thẩm tra nội dung về nội dung giới hạn tỷ lệ sở hữu tại các TCTD, Ủy ban Kinh tế đề nghị làm rõ hơn cơ sở đề xuất các tỷ lệ này; cần đánh giá rõ thực trạng sở hữu cổ phần tại các TCTD để xác định rõ mức độ, nguyên nhân của tình trạng sở hữu chéo để đề xuất giải pháp căn cơ, triệt để và xử lý được tình trạng sở hữu chéo như hiện nay. Đồng thời, bổ sung đánh giá tác động của các quy định đối với các cổ đông đang sở hữu cổ phần từ trên 3% đến dưới 5%, trên 10% đến dưới 15% và trên 15% đến dưới 20%, nhất là cổ đông chiến lược nước ngoài sẽ phải giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần sau khi luật có hiệu lực; tác động của chính sách đến thị trường chứng khoán.
Trong 5 kiến nghị của Ủy ban Kinh tế Quốc hội tập trung vấn đề can thiệp sớm tổ chức tín dụng (từ Điều 144 đến Điều 148), đối với cơ quan soạn thảo, có một số nội dung liên quan đến các ý kiến góp ý như VCCI nêu trên, như kiến nghị tăng trách nhiệm của cổ đông/thành viên góp vốn, người quản lý, giám sát tổ chức tín dụng để xảy ra tình trạng tổ chức tín dụng yếu kém, đồng thời quy định chế tài đủ mạnh mẽ, quyết liệt đối với các đối tượng nêu trên để tăng cường hiệu quả thực thi chính sách, bảo đảm phù hợp với nguyên tắc, quy định về xử lý tổn thất, thiệt hại theo quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Lao động; Kiến nghị làm rõ trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với việc triển khai các phương án...
Có thể bạn quan tâm
17/5: Hội thảo "Vấn đề xử lý nợ xấu trong Luật Các TCTD (sửa đổi)"
11:19, 14/05/2023
Tăng trách nhiệm kiểm soát nội bộ, chặn sở hữu chéo trong ngân hàng
05:30, 03/07/2023
“Chặt vòi” sở hữu chéo ngân hàng
12:00, 12/06/2023
Sở hữu chéo ngân hàng: Kỳ 2 - Khi ngân hàng sở hữu ngân hàng
04:50, 11/06/2023