Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp mới dừng ở mức sửa sai
Đây là nhận định của Luật sư Trương Thanh Đức khi bình luận về Dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp.
Có thể bạn quan tâm
Lo ngại tình trạng "vô hiệu hóa", "vượt" Luật Đầu tư
16:27, 18/02/2019
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp
06:16, 17/02/2019
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ rõ bốn “điểm nghẽn” của Luật Doanh nghiệp
06:16, 18/02/2019
Sửa đổi còn "luẩn quẩn, không rõ mục tiêu"
Luật sư Trương Thanh Đức, Chủ tịch Công ty Luật Basico, Trọng tài viên VIAC khẳng định nội dung sửa đổi lần này là khá nhiều, với dự kiến sửa đổi, bổ sung và bãi bỏ tổng cộng 75 điều luật trên tổng số 289 điều của 2 Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp (kể cả việc thay thế cụm từ) và 9 luật khác. Ngoài ra đã sửa đổi 3 điều và 1 phụ lục Luật Đầu tư vào năm 2016.
“Tuy nhiên, việc sửa đổi không phải là đổi mới, mà chủ yếu là sửa sai bởi trên thực tế đây là những vấn đề bất cập từ lâu, nhưng chưa được giải quyết trong Luật 2014, như không tập trung đăng ký kinh doanh tất cả các hoạt động kinh doanh không chỉ của doanh nghiệp mà của mọi pháp nhân”, ông Đức nói và nêu ví dụ.
Minh chứng cụ thể, ông Đức lấy ví dụ về điểm b, khoản 1, Điều 1 của Dự thảo Luật bổ sung giải thích “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” là lấy lại nguyên văn quy định tại khoản 2, Điều 4 về “Giải thích từ ngữ” tại Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã bị bỏ đi trong Luật năm 2014.
Thêm vào đó, theo ông Đức nếu việc sửa đổi còn luẩn quẩn, không rõ mục tiêu, sẽ dẫn đến nguy cơ còn phải sửa đổi nhiều nữa. Ví dụ doanh nghiệp nhà nước từ chỗ là 100% vốn nhà nước, sang trên 50% theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, rồi đổi 100% theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 và giờ lại định quay về trên 50% (khoản 2, Điều 2 Dự thảo Luật).
Phải viết lại Luật Doanh nghiệp
Để những sửa đổi trên đi vào thực chất, Luật sư Đức cho rằng, ban soạn thảo cần thay đổi một cách căn bản quan điểm khi sửa Luật.
Kiến nghị hơn về ngành, nghề đầu tư kinh doanh, luật đã bỏ toàn bộ việc ghi nhận ngành, nghề đầu tư, kinh doanh trên Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, thay vì chỉ bỏ những ngành, nghề tự do đầu tư, kinh doanh không cần điều kiện. Các ngành, nghề tự do kinh doanh nhưng lại vẫn phải thông báo ngành nghề, kinh doanh như đối với 243 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, thực chất vẫn là một dạng đăng ký.
Ông Đức kiến nghị đối với ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì vẫn cần ghi nhận trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (kinh doanh) như trước đây. Song cần bỏ hẳn việc thông báo ngành nghề kinh doanh vì hầu như không có ý nghĩa pháp lý, kể cả việc thống kê. Chỉ có ý nghĩa pháp lý và cần quản lý khi doanh nghiệp tiến hành kinh doanh thực tế thông qua quản lý hóa đơn, chứng từ, kế toán, tài chính.
Về chủ thể kinh doanh, cần loại bỏ hộ kinh doanh phải đăng ký kinh doanh để chuyển thành doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty. Bởi hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh (khác với hộ kinh doanh không bắt buộc phải đăng ký kinh doanh) là một tổ chức kinh doanh chuyên nghiệp, thường xuyên, bản chất chính là và phải là doanh nghiệp tư nhân.
Đồng thời quy định một giai đoạn chuyển tiếp và chế độ quản lý, tài chính, kế toán hết sức đơn giản, phù hợp với thực tế.
Về loại hình công ty, bản chất pháp lý và nguyên lý quản trị, điều hành giữa hai loại công ty TNHH và cổ phần là như nhau (đều là công ty đối vốn và chịu trách nhiệm hữu hạn như nhau), nhưng pháp luật hiện nay lại được quy định rất khác nhau không vì lý do chính đáng, không phù hợp với thực tế.
Ví dụ công ty cổ phần gồm ba cổ đông là vợ, chồng và con, đã có Đại hội đồng cổ đông, lại buộc phải có thêm Hội đồng quản trị, được bán cổ phần tăng vốn ra công chúng và được tự do chuyển nhượng vốn cổ phần công ty; trong khi công ty TNHH có 50 thành viên thì chỉ có Hội đồng thành viên, không được bán tăng vốn ra công chúng và không được tự do chuyển nhượng vốn công ty.
Do đó, việc phân chia công ty TNHH có từ 1 đến 50 thành viên và công ty cổ phần có từ 3 cổ đông trở lên là không hợp lý. Việc phân chia thành hai loại như trên, tạo ra quá nhiều sự trùng lắp, dài dòng, phức tạp, rắc rối, vô lý về pháp lý.
“Đã đến lúc phải sửa sai, mạnh dạn xoá bỏ việc phân biệt về số thành viên, mô hình, yêu cầu tổ chức, hoạt động khác nhau giữa công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Chỉ cần phân biệt sự khác nhau giữa các công ty khi đạt đến một quy mô cổ đông nhất định có thể ảnh hưởng đến yêu cầu quản lý, quyền lợi của cổ đông và công chúng, như từ 11 thành viên (gọi chung là cổ đông) trở lên thì phải thực hiện thêm một số yêu cầu (đã được quy định trong Luật hiện hành với cả hai loại hình công ty). Đặc biệt là công ty đại chúng từ 100 cổ đông trở lên thì phải thực hiện thêm nhiều yêu cầu cao hơn (hiện nay chỉ đặt ra đối với công ty cồ phần).
Khi đó công ty có từ 2 đến 10 cổ đông được tổ chức và hoạt động giống nhau (không phân biệt giữa Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng thành viên, giữa cổ đông và thành viên, giữa tối thiếu 1 hay 3 và tối đa 50 hay bao nhiêu cổ đông). Khi có từ 11 và 100 cổ đông trở lên thì phải đáp ứng một số yêu cầu, chẳng hạn có Hội đồng quản trị, thành viên độc lập Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát hoặc Ủy ban kiểm toán nội bộ, cơ chế tự do chuyển nhượng cổ phần”, ông Đức nói.
Bộ Kế hoạch và đầu tư hiện đang chủ trì soạn thảo Dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp nhằm bảo đảm tính hợp lý, khả thi của văn bản, quyền và lợi ích của các doanh nghiệp có liên quan. Đây được đánh giá là 2 đạo Luật có tác động lớn đến cộng đồng doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, trong thời gian qua, Quốc hội đã ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung nhiều đạo luật quan trọng nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, trong đó có Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp. Các đạo luật này đã góp phần xóa bỏ rào cản về đầu tư, kinh doanh không phù hợp với kinh tế thị trường và cam kết hội nhập của Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng ngày càng thuận lợi, minh bạch và bình đẳng giữa các nhà đầu tư. |