Grab “kêu cứu” vì bị quản như taxi
Grab khẳng định yêu cầu taxi công nghệ phải gắn hộp đèn trên nóc xe là không cần thiết.
Công ty TNHH Grab vừa có văn bản “cầu cứu” Bộ Giao thông Vận tải về những vấn đề bất cập tại Dự thảo lần 8, Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 86/2014/NĐ-CP về điều kiện kinh doanh vận tải bằng ô tô.
Có thể bạn quan tâm
Bộ Giao thông tiếp tục đề xuất gắn 'mào' cho taxi kiểu Uber, Grab
10:22, 08/04/2019
Bị tố tùy tiện mở rộng thí điểm, Grab 'phản pháo' Hiệp hội Vận tải ôtô
17:15, 09/04/2019
Hiệp hội taxi Đà Nẵng kiện Grab dựa trên cơ sở nào?
06:00, 31/03/2019
Vận rủi của Grab
09:14, 30/03/2019
Grab “hé lộ” tham vọng thực sự tại Việt Nam
11:30, 25/03/2019
Đến lượt Hiệp hội Taxi Đà Nẵng kiện Grab?
08:50, 24/03/2019
Tăng chi phí kinh doanh cho đơn vị kinh doanh vận tải
Bộ Giao thông Vận tải vừa trình Chính phủ Dự thảo Nghị định 86 sửa đổi lần thứ 8 về điều kiện kinh doanh vận tải bằng ô tô. Theo Đối chiếu quy định trong dự thảo này, các hãng gọi xe công nghệ hiện nay như: Go Viet, Grab, FastGo… đều phải đăng ký là doanh nghiệp vận tải. Nếu các doanh nghiệp này hoạt động như taxi sẽ áp dụng quy định như taxi, còn nếu hoạt động như xe hợp đồng sẽ phải áp dụng quy định như vậy. Dù ở trường hợp nào, các xe này đều phải gắn mào khi hoạt động.
Phản ứng lại quy định gắn yêu cầu taxi công nghệ phải gắn hộp đèn trên nóc xe taxi kết nối với hành khách qua ứng dụng (điểm b Khoản 1 Điều 6) và xe hợp đồng sử dụng hợp đồng điện tử (điểm c Khoản 1 Điều 7) Grab khẳng định quy định này là không cần thiết.
“Bởi lẽ, nếu nhằm mục đích nhận diện xe kinh doanh cho cơ quan chức năng, thì tất cả các phương tiện đều đã được niêm yết phù hiệu “xe taxi” hoặc “xe hợp đồng” trên kính trước của xe như quy định pháp luật.
Còn nếu nhằm mục đích nhận diện xe cho hành khách thì cũng không cần thiết, vì thông tin về xe, lái xe, số điện thoại liên lạc của lái xe đã được cung cấp cho khách hàng qua ứng dụng để nhận biết xe được kết nối. Bên cạnh đó, các xe này cũng không phục vụ, đón khách vãng lai trên đường như đối với loại xe taxi bằng hình thức “vẫy xe”. Đồng thời, việc lắp thêm hộp đèn là không cần thiết và tăng chi phí kinh doanh cho đơn vị kinh doanh vận tải” - ông Lim Yen Hock, Giám đốc Công ty TNHH Grab nhấn mạnh.
Tại điều 13 Dự thảo chỉ quy định các điều kiện áp dụng cho hoạt động kinh doanh vận tải nói chung. Trong khi đó, khoản 2 Điều 3 Dự thảo lại phân chia hoạt động kinh doanh vận tải thành các công đoạn khác nhau.
Điều này, theo ông Lim Yen Hock sẽ dẫn đến khả năng một đơn vị dù chỉ thực hiện một công đoạn của hoạt động kinh doanh vận tải, nhưng vẫn phải xin phép kinh doanh và tuân thủ toàn bộ các điều kiện kinh doanh vận tải. Điều này hoàn toàn không hợp lý và không có cơ sở pháp lý.
Vì thế, phía Grab đề nghị: Quy định rõ các điều kiện kinh doanh phù hợp với các công đoạn của hoạt động kinh doanh vận tải tương ứng.
“Mập mờ” quy định hợp đồng vận chuyển
Ngoài ra, cũng tại Khoản 2 Điều 3 Dự thảo quy định, nếu doanh nghiệp thực hiện một trong hai công đoạn sau “trực tiếp điều hành phương tiện, lái xe” hoặc “quyết định giá cước vận tải”, thì sẽ được coi là kinh doanh vận tải bằng xe ô tô.
Về vấn đề này, phía Grab cho rằng: Bản thân, 2 khái niệm sẽ gây ra nhiều cách hiểu khác nhau trong quá trình thực thi, dẫn đến sự bất bình đẳng trong việc áp dụng các quy định pháp luật.
Cụ thể, hoạt động kinh doanh vận tải bao gồm nhiều công đoạn. Việc chỉ đưa hai công đoạn “điều hành phương tiện, lái xe” và “quyết định giá cước vận tải” vào định nghĩa kinh doanh vận tải, mà bỏ qua những công đoạn cốt lõi khác, như sử dụng và quản lý xe ô tô, thuê và quản lý người lái xe, điều khiển phương tiện, v.v. là không hợp lý.
“Chúng tôi đề xuất, cần quy định rõ ràng các khái niệm “trực tiếp điều hành phương tiện, lái xe” hoặc “quyết định giá cước vận tải”. Đồng thời, bổ sung các công đoạn cốt lõi, đặc trưng của hoạt động kinh doanh vận tải vào khái niệm “kinh doanh vận tải bằng xe ô tô”, ông Lim Yen Hock nói.
Một kiến nghị khác mà Grab đề cập đó là, tại Điều 15 Dự thảo không ghi hợp đồng vận chuyển được quy định áp dụng cho loại hình kinh doanh vận tải nào, do đó, có thể gây hiểu nhầm rằng hợp đồng vận chuyển này áp dụng cho tất cả các loại hình kinh doanh vận tải, kể cả xe buýt, xe taxi...
Việc quy định về nội dung tối thiểu của hợp đồng (khoản 2 Điều 15) cũng chưa phù hợp với xu thế cải cách pháp luật. Bộ luật Dân sự đã bỏ các quy định về nội dung chủ yếu (bắt buộc phải có) của hợp đồng để đảm bảo tôn trọng quyền tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận của doanh nghiệp và người dân.
Hơn nữa, nhiều thông tin được yêu cầu trong khoản 2 Điều 15 Dự thảo là không cần thiết, hoặc đã được niêm yết trên xe theo quy định (đối với các phương tiện kinh doanh vận tải nói chung), hoặc đã được các nhà cung cấp ứng dụng kết nối thu thập, lưu trữ và sẵn sàng cung cấp cho các bên liên quan khi được yêu cầu theo quy định pháp luật về thương mại điện tử (đối với loại xe hợp đồng sử dụng hợp đồng điện tử nói riêng). Ví dụ như mã số thuế, thông tin về doanh nghiệp, lái xe, phương tiện... Việc yêu cầu quá nhiều thông tin không cần thiết khiến giao diện phức tạp, gây bất tiện cho hành khách.
Còn tại Điều 16 quy định về việc thực hiện hợp đồng điện tử không hợp lý, vì chồng chéo với các quy định pháp luật hiện hành. Luật Giao dịch điện tử và Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử đều có một chương riêng quy định về vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử. Khoản 4 Điều này còn quy định cả trách nhiệm của người thuê vận tải, hành khách tham gia giao kết hợp đồng vận chuyển điện tử là hoàn toàn không cần thiết.
Với 2 quy định này, Grab đề xuất bãi bỏ toàn bộ nội dung Điều 15, Điều 16. Nếu cần thiết phải quy định về nội dung tối thiểu của hợp đồng vận chuyển để làm cơ sở bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thì chỉ nên quy định và áp dụng đối với loại hình kinh doanh bắt buộc phải có hợp đồng bằng văn bản.
“Nội dung tối thiểu của hợp đồng chỉ bao gồm các thông tin cần thiết nhất, để hạn chế can thiệp vào hoạt động kinh doanh và quyền tự do thỏa thuận, giao kết hợp đồng của người dân và doanh nghiệp”. Ông Lim Yen Hock kiến nghị.