“Lẫn lộn” khái niệm vốn nhà nước tại doanh nghiệp

ĐỖ HUYỀN 01/09/2021 03:50

Những bất cập trong khái niệm “Vốn nhà nước tại doanh nghiệp" là một trong những nguyên nhân dẫn đến thất thoát vốn nhà nước.

Báo cáo kết quả kiểm toán năm 2019 của Tổng Kiểm toán Nhà nước Trần Sỹ Thanh vừa trình bày tại kỳ họp thứ 1, Quốc hội khóa XV đã làm lộ diện những lỗ hổng và vi phạm các quy định pháp luật trong quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại 160 doanh nghiệp thuộc 17 tập đoàn và tổng công ty.

Báo cáo của Tổng Kiểm toán Nhà nước (KTNN) cũng cho biết, qua quá trình kiểm tra, xác minh đã xác định lại tiền thuê đất, thuế đất. Do vậy, một số đơn vị phải nộp thêm như Sawaco 145,58 tỷ đồng; UDIC 47,05 tỷ đồng; Samco 23,16 tỷ đồng; Tổng Công ty Địa ốc Sài Gòn 4,32 tỷ đồng; EVN HCM 5,09 tỷ đồng; EVNCPC 1,09 tỷ đồng; PVOil 0,55 tỷ đồng. Đặc biệt đối với công tác cổ phần hóa, nhiều tập đoàn, tổng công ty, công ty chưa thoái vốn đầu tư theo kế hoạch được duyệt như UDIC với toàn bộ các đơn vị theo danh mục được phê duyệt; Handico chậm thoái vốn đầu tư tại 5 đơn vị, chưa thoái vốn tại 10 đơn vị... chậm thoái vốn khỏi lĩnh vực tài chính ngân hàng, lĩnh vực không phù hợp với ngành nghề kinh doanh chính như Sawaco (Công ty Cổ phần Quảng trường Quốc tế); Handico (Công ty Tài chính Cổ phần Handico)… 

TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, cho rằng khái niệm về vốn nhà nước tại Luậtp/QLSDVNN tại DN không còn phù hợp, có sự lẫn lộn, sai lệch về các loại vốn, tài sản, sở hữu tài sản thuộc sở hữu nhà nước và tài sản của DN. “Đó là di sản của kinh tế kế hoạch hóa tập trung cần phải loại bỏ”.

TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện CIEM cho rằng, khái niệm về "vốn nhà nước tại  doanh nghiệp" không còn phù hợp, có sự lẫn lộn, sai lệch về các loại vốn, tài sản, sở hữu tài sản thuộc sở hữu nhà nước và tài sản của doanh nghiệp.

Những sai sót và chậm trễ đó không loại trừ có nguyên nhân từ sự bất ổn trong cách hiểu “vốn nhà nước tại doanh nghiệp” được quy định trong Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (Luật số 69/2014).

Theo đánh giá của các chuyên gia, những sai phạm đó có một phần nguyên nhân từ những kẽ hở của luật mà hầu như “ai cũng biết và đã nói rất nhiều”. Vấn đề đặt ra là cần cấp thiết sửa đổi bổ sung Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp.

Ông Đặng Quyết Tiến, Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp, Bộ Tài chính nhận định, Quốc hội khóa 13 tạo hành lang pháp lý cho việc đầu tư vốn nhà nước vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp. Cơ chế, chính sách quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước đầu tư tại các DNNN đã được xây dựng đồng bộ phù hợp với yêu cầu đổi mới, hội nhập.

Tuy nhiên, theo ông Tiến, trong giai đoạn vừa qua, một số chủ trương, quan điểm chỉ đạo và hệ thống pháp luật có liên quan đến việc quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp có thay đổi.

Cụ thể như: Nghị quyết số 12 NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN; Văn kiện Đại hội XIII của Đảng; Luật số 35/2018/QH14 sửa đổi bổ sung một số điều của 37 luật có liên quan đến quy hoạch; Luật Đầu tư công số 39/2019/QH14; Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 và Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2021.

Đồng thời, quá trình triển khai thực hiện Luật số 69/2014 và các văn bản hướng dẫn cũng đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế bất cập như: việc xác định vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp; thẩm quyền quyết định dự án đầu tư, xây dựng, mua bán tài sản cố định; thẩm quyền quyết định đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp.

Cùng với đó là quy định về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp: phương thức chuyển nhượng vốn đầu tư, phân phối lợi nhuận sau thuế; nguyên tắc phân phối lợi nhuận sau thuế của DNNN; bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp; các phương thức chuyển giao, cơ cấu lại vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Sự can thiệp quá sâu của cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước là điều kiện cần để kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn nhà nước; nhưng lại thiếu vắng điều kiện đủ, không hiện diện trực tiếp và thường xuyên tại DN, dẫn đến hiệu quả quản lý hạn chế…

Sự can thiệp quá sâu của cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước là điều kiện cần để kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn nhà nước; nhưng lại thiếu vắng điều kiện đủ, không hiện diện trực tiếp và thường xuyên tại doanh nghiệp, dẫn đến hiệu quả quản lý hạn chế…

Ngoài ra, bất cập còn nằm ở việc quản lý, sử dụng tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn; quyền hạn, trách nhiệm, phương thức quản lý người đại diện và nhóm người đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp, cơ quan đại diện chủ sở hữu và công tác giám sát; quản lý của DNNN đối với công ty con do DNNN nắm giữ 100% vốn điều lệ…

Trong khi đó, theo TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp trở thành cổ đông, thành viên, và tài sản có được là số cổ phần, phần góp vốn tương ứng.

Tuy nhiên, khái niệm về vốn nhà nước tại Luật 69/2014 không còn phù hợp, có sự lẫn lộn, sai lệch về các loại vốn, tài sản, sở hữu tài sản thuộc sở hữu nhà nước và tài sản của doanh nghiệp. “Quy định hiện hành (Luật 69/2014) làm lẫn lộn và không phân biệt được về mặt pháp lý tài sản của doanh nghiệp và tài sản nhà nước. Cần loại bỏ các khái niệm kiểu này, chúng là di sản của kinh tế kế hoạch hóa tập trung”, ông Cung nói.

Theo quan điểm của ông Cung, cần làm rõ vai trò của các cơ quan đại diện chủ sở hữu: sau khi đầu tư, các cơ quan đại diện chủ sở hữu là chủ sở hữu phần vốn góp, cổ phần tại doanh nghiệp và có quyền, nghĩa vụ tương tự các nhà đầu tư, các cổ đông của doanh nghiệp.

Do vậy, các cơ quan đại diện chủ sở hữu không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Mọi hoạt động của doanh nghiệp do ban điều hành thực hiện; tách chức năng quản lý của chủ sở hữu nhà nước với quản lý điều hành doanh nghiệp.

"Bên cạnh đó, cần thay đổi theo hướng đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư vốn nhà nước phải thực hiện theo các nguyên tắc thị trường, theo đó, phải đánh giá dựa trên giá trị gia tăng của vốn đầu tư và cổ tức, lợi nhuận được chia hàng năm – hiệu quả đầu tư vốn của cổ đông nhà nước", ông Cung nhấn mạnh.

Có thể bạn quan tâm

  • TÀI CHÍNH ĐA CHIỀU: "Cá mập" săn mua cổ phiếu thoái vốn Nhà nước

    05:35, 05/06/2021

  • Thoái vốn Nhà nước: “Nút thắt” đã gỡ

    05:00, 02/06/2021

  • “Hạt sạn” trong cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước

    11:10, 21/05/2021

  • Dự thảo Thông tư quản lý lợi tức vốn Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp: Một số quy định chưa phù hợp

    04:30, 06/02/2021

  • TIN NÓNG CHÍNH PHỦ: Tiếp tục thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo Quyết định 908/QĐ-TTg

    18:00, 25/01/2021

  • Thách thức kép với Ủy ban quản lý vốn Nhà nước tại Doanh nghiệp

    10:26, 13/01/2021

  • TIN NÓNG CHÍNH PHỦ: Quy định mới về quản lý người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp

    19:01, 08/01/2021

ĐỖ HUYỀN