Hoá giải sự lệch pha trong cung-cầu lao động
Mặc dù 70% công nhân lao động ở nước ta được đào tạo nhưng chỉ 24,5% có chứng chỉ nghề nghiệp. Điều đáng nói, số lao động có kỹ năng mềm rất ít.
Lao động thiếu hụt trầm trọng kỹ năng
Việt Nam có gần 100 triệu dân, trong đó khoảng 55 triệu công nhân lao động, song chia sẻ tại buổi đối thoại với công nhân lao động diễn ra mới đây, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội - ông Đào Ngọc Dung cho biết: Hiện nay, tỷ lệ lao động được đào tạo đạt 70%, nhưng chỉ có 24,5% có chứng chỉ nghề nghiệp. “So sánh trong khu vực ASEAN, chúng ta là một trong những quốc gia có tỷ lệ đào tạo nghề thấp”, ông Đào Ngọc Dung nhấn mạnh.
Các chuyên gia lao động đặc biệt quan ngại khi kỹ thuật, kỹ năng hành vi, kỹ năng mềm khác của lao động Việt Nam còn yếu, như kỹ năng giao tiếp, phối hợp làm việc nhóm, khả năng linh hoạt ứng phó tình huống, tính kỷ luật....
Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát nhanh, bền vững đất nước.
Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp nước ngoài đã phàn nàn về sự thiếu hụt kỹ năng mềm của người lao động hiện nay, như lao động Việt Nam thường nói quá to, sử dụng từ ngữ tự do, gây ảnh hưởng đến năng suất lao động và môi trường làm việc chung... Thực tế này đã dẫn đến những trường hợp xung đột quan hệ lao động đáng tiếc xảy ra.
Giới chuyên gia cho rằng, kỹ năng mềm quyết định tới 75% sự thành đạt. Một trong những kỹ năng mềm quan trọng, cần thiết nhất là giao tiếp. Đây là quá trình làm cho người khác hiểu ý của mình, là quá trình tạo dựng mối quan hệ tốt với đối tác, góp phần vào sự thành công của cá nhân.
Ở khía cạnh khác, nhiều lao động Việt Nam trình độ ngoại ngữ, kỹ năng công nghệ thông tin, khả năng sáng tạo... rất hạn chế so với lao động các nước trong khu vực ASEAN.
Trong khi đó, năng lực của cơ sở giáo dục nghề nghiệp hạn chế; điều kiện đảm bảo chất lượng thấp… khiến việc tuyển sinh trong giáo dục nghề nghiệp chỉ đạt khoảng 2,2 triệu người/năm - con số quá thấp so với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sự chênh lệch và thiếu hụt như vậy khiến cung - cầu lao động khó gặp được nhau.
Giảm sự lệch pha cung-cầu
Tổ chức Lao động thế giới dự báo, tới năm 2026, thế giới sẽ có khoảng 40% người lao động không còn kỹ năng phù hợp với công việc hiện tại, vì phải thay thế bằng công nghệ mới; 30% người lao động buộc phải chuyển nghề. Điều này đang tạo sức ép lớn cho người lao động.
Thực tế này được phần lớn công nhân lao động ý thức được, tuy nhiên, sức ép công việc, điều kiện làm việc, kinh tế… đang tạo áp lực cho họ.
Chia sẻ vấn đề này, anh Bùi Văn Trường - Công ty TNHH Luxshare - ICT, Bắc Giang cho rằng: “Chúng tôi đều mong muốn có tay nghề vững để có thể có thu nhập cao, đời sống ổn định, đóng góp nhiều cho doanh nghiệp, đất nước. Nhưng hiện nay, việc học nghề, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của nhiều công nhân rất khó khăn, vì điều kiện thời gian, kinh phí, quãng đường từ nơi làm việc đến chỗ học...”.
Ý kiến của anh Bùi Văn Trường được đánh giá là đòi hỏi chính đáng của người lao động. Bởi, bất cứ quốc gia nào, công việc nào cũng cần phải phát triển sản xuất kinh doanh từ đó mới có công ăn việc làm, mới giải quyết được lao động; phải nâng cao năng suất, chất lượng việc làm của mình lên. Muốn như vậy phải có đào tạo nâng cao tay nghề.
Song để làm được, ngoài nỗ lực của công nhân phải có vai trò, trách nhiệm của Nhà nước, các cơ quan liên quan, đặc biệt trong việc dành nguồn lực đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực.
Đề cập đến giải pháp cho thị trường lao động hiện nay, Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH Đào Ngọc Dung thừa nhận, cung lao động còn nhiều bất cập, hạn chế, chưa đáp ứng cho cầu lao động của một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập. Cầu lao động của nền kinh tế cũng chưa đủ “hiện đại”, chưa có đủ việc làm bền vững để đáp ứng nhu cầu việc làm phù hợp với nguyện vọng của người lao động. Thị trường lao động Việt Nam vẫn dư thừa, có trình độ, kỹ năng thấp và có sự phát triển không đồng đều. Phương thức quản trị thị trường lao động còn nhiều yếu kém, rời rạc, thiếu tính kết nối.
Từ thực tế trên để bù đắp những khoảng trống còn yếu kém theo Bộ trưởng Đào Ngọc Dung, cần khẩn trương rà soát, đánh giá nhu cầu nhân lực theo từng ngành, lĩnh vực, từng vùng để kịp thời kết nối việc cung ứng nhân lực.
“Đặc biệt là đánh giá nhu cầu nhân lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Song hành với đó là sắp xếp tổ chức, đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, nhất là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Tổ chức thực hiện các biện pháp để giải quyết nhu cầu thiếu nhân lực cục bộ, giảm sự mất cân đối cung - cầu lao động”, ông Dung nói.
Có thể bạn quan tâm
Nhân lực chất lượng cao - bài toán cho nhiều ngành nghề trong kỷ nguyên số
19:22, 29/12/2022
Quá trình đào tạo nghề phải đáp ứng tiêu chuẩn của doanh nghiệp
18:50, 29/12/2022