Thủy thủ viễn dương - một thời để nhớ (Kỳ I)
Trong làng Hàng hải Việt Nam, những người đi biển vì tình yêu biển rất hiếm. Đa số vì niềm khát vọng làm giàu.
Đi biển là nghề nguy hiểm, vất vả, không đơn giản là một cuộc dạo chơi nhẹ nhàng, lại hái ra tiền, như các độc giả của những tiểu thuyết hình sự đăng tải nhiều kỳ trên báo thường bị ngộ nhận. Những cái tên như: Mũi Horn, Tam giác Quỷ, Nghĩa địa tàu thuyền,... đủ làm khiếp đảm cả những “sói biển” thực thụ, huống hồ kẻ đi biển bất đắc dĩ.
Thế nhưng, chế độ bao cấp “gạo châu, củi quế” đã mở cho họ con đường thênh thang để hoàn thành giấc mơ đó.
V.T, một “Vosco” đi tàu S. khoe rằng: đã từng “đánh quả” từ Nhật Bản về Hải Phòng 800 gói mì chính VESU, thắng 10 cây vàng. Ngày ấy vàng hiếm đến nỗi kẻ viết bài này hưởng lương kỹ sư, 5 năm không dính rượu chè, cờ bạc, nghiện hút, vẫn không mua nổi 1 chỉ vàng đeo ngón tay! Đấy là mới kể một mặt hàng rất hiền lành, mà “lính viễn dương” thì “đánh” từ xe máy đến cuộn chỉ. Lợi nhuận siêu cấp mạ vàng cuộc đời thủy thủ. “10 năm đi Nga không bằng 3 năm đi Đức. 3 năm đi Đức không bằng một lúc đi tàu”.
Giấc mơ thời bao cấp
Hồi đầu những năm 80, đối với nhiều người dân phố Cầu Đất, thành phố Hải Phòng, sự kiện mỗi ngày H - một cư dân của họ, dùng hết nửa bao thuốc lá “3 số” (vừa hút vừa làm “công tác đối ngoại”) bị xem là thói xa hoa kinh khủng. Thế nhưng H. chỉ cười nhạt. H. có số được thần tài ủng hộ, đúng hơn là có ông chú làm tổ chức bên “thực phẩm”, nên đã chạy được một chân thủy thủ trên con tàu biển thường xuyên đi về Hải Phòng-Hong Kong-Nhật Bản. Thế là H. giàu, “đổi đời”. Trong mắt xã hội Hải Phòng lúc bấy giờ, H. trở thành một “VOSCO” (VOSCO - Cty Vận tải Biển Việt Nam - đã trở thành danh từ chung chỉ sự giàu có ở thành phố Hoa Phượng Đỏ và thậm chí trong cả nước).
Có thể bạn quan tâm |
Đã bao nhiêu lần, H. nghe thấy giọng quát nạt đau khổ của ông hàng xóm trước lời xin tiền thấm đẫm nước mắt của thằng con lão đòi mua sách vở: “Nhà này không phải kho tiền! Mày cứ làm như bố mày ở VOSCO ấy!”. H. biết người ta ghen tị. Nhà người ta chẳng có gì. Nhà H. cái gì cũng có: Radio - quay đĩa National dài “mét hai” (1,2m), tivi Panasonic đen trắng, xe Honda đời 78 màu xanh ốc bươu, máy khâu “Con bướm” 5 ngăn và tủ lạnh Toshiba “Đầu gấu” 2 cửa, thậm chí xe đạp mini “2 dóng” có những 3 chiếc…
Buổi sáng, người ta xếp hàng ăn phở mậu dịch không thịt, phở “không người lái”, H. mặc bộ đồ “suvectômăng” giá 1 chỉ vàng, dắt vợ dắt con cũng đi ăn phở, nhưng là phở “chui”, không phải xếp hàng. Vợ H. gọi cái đùi gà chặt cho cả nhà, khiến cô chủ quán luôn miệng dạ ran. H mặt lạnh lùng móc trong túi ra cái lọ, ngày trước đựng thuốc peneciline, cẩn thận rắc những hạt mì chính xuống bát phở, nghe rõ cả tiếng thở dài buồn bã của vị thực khách ngồi bên, bởi cả xã hội ngày ấy có câu ví von: “Quí như là mì chính cánh!”. Buổi chiều, H. uống bia Shapporo. Vợ H. nhặt cất vỏ lon, để cho hàng xóm làm bơ đong gạo, hoặc bày tủ ly!
Nói với tôi: Đôi lúc H. cũng giật mình sao H. lấy được vợ đẹp như thế! Vợ H. là 1 cô giáo cấp II, con bà bán hàng tạp phẩm chợ Sắt. Mỗi khi tàu từ Nhật về, H. “đổ” xà phòng Camay, mì chính A-one và xích líp xe đạp Nhật cho bà. Hồi H. còn là thợ may phố huyện nghèo kiết, H. chẳng dám mơ đến sờ vào ngón tay út của cô. Đến khi H. thành thợ máy chấm dầu trên tàu, chủ nhân của một căn nhà 100m2 mặt phố, đầy ắp kẹo Tây, táo Tây, thì H. được bà mẹ vợ tương lai quàng cả 2 tay cô con gái “rượu” lên cổ. Chả trách bọn trẻ con vẫn cứ hát: “Đẹp giai đi bộ không bằng anh rỗ đi “doa” (xe đạp Peugeot), Anh rỗ đi “doa” không bằng anh già đi Cup, Anh già đi Cup không bằng anh cụt VOSCO”. H. đi hỏi vợ bằng 2 chiếc xe Toyota mượn của các xếp làm náo động cả phố phường. Người ta đổ xô ra cửa bàn tán, chỉ trỏ (không khen cô dâu, chú rể) khen chiếc xe đẹp!
Hồi ấy, ở Hải Phòng có hơn 1.000 người như H., họp thành tầng lớp đặc biệt, tục gọi là những “VOSCO”. Mặc dù, họ làm thuyền viên trên các đội tàu của ngành Thủy sản, Xăng dầu, Lương thực, của các Cty Vận tải biển như: Hải Phòng SHIP, VIETCO- SHIP,... Rất dễ nhận ra họ trên đường phố, bởi vì nó đập vào mắt. Họ mặc quần bò, áo lông, chân đi giày Adidas, tay đeo đồng hồ Seiko, miệng nhai kẹo Chewing gum và có lúc tiêu tiền Mỹ! Trong các quán ăn, ai nói to nhất, giọng khinh bạc nhất, kiểu cách quê mùa, có lẽ là họ.
Thỉnh thoảng họ lại làm cả thành phố xôn xao bởi dám xây một cái nhà cao những 3 tầng. Họ trở thành nguồn đề tài vô tận để cho dân tình thích thú đàm tiếu đủ chuyện, đại loại: vợ họ ngày thường mà cũng đánh phấn, con họ cầm gặm nguyên quả táo Tây, làm nghẹn ngào cả người nghe! Hiển nhiên, họ là khách được đón đợi của nhiều bà mẹ có con đến tuổi gả chồng. Họ là “kiều” Việt! Nhưng họ đặc biệt thích các cô giáo tiểu học, các cô thợ may xinh xinh, nhàn nhã, không yêu cầu làm ra tiền. Nhiều người tin rằng họ có khả năng biến cái không thể trở thành có thể, như đưa cả đàn con cháu từ nông thôn ra thành phố. Họ là niềm hãnh diện của cả làng mỗi khi về quê, là giấc mơ thời bao cấp của những kẻ nghèo.
(Còn tiếp)