Diễn đàn Doanh nghiệp 2024: Khơi thông động lực tăng trưởng mới
Được sự chỉ đạo của VCCI, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức "Diễn đàn Doanh nghiệp 2024: Khơi thông động lực tăng trưởng mới" vào chiều nay (12/4).
Năm 2024 là năm tăng tốc, bứt phá, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025.
Thời gian vừa qua, nền kinh tế có những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn. Sức ép lạm phát còn lớn; sản xuất kinh doanh dự báo còn khó khăn; nhu cầu các thị trường xuất, nhập khẩu lớn, truyền thống của Việt Nam tiếp tục suy giảm...
Trong bối cảnh đó, để hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng, ngày 5/1/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2024; Nghị quyết số 02/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2024; Nghị quyết 58/NQ – CP ngày 21/4/ 2023 của Chính Phủ về một số chính sách, giải pháp trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững đến năm 2025.
Được sự chỉ đạo của VCCI, hôm nay (12/04/2024) Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức: DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP 2024: KHƠI THÔNG ĐỘNG LỰC TĂNG TRƯỞNG MỚI.
Tham dự Diễn đàn về phía đơn vị chỉ đạo có: Ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).
Về phía các vụ, ban, ngành Trung ương có: TS Nguyễn Tú Anh - Vụ trưởng, Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương; Bà Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (CIEM); Ông Phạm Hồng Quất - Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và Doanh nghiệp KHCN (Bộ Khoa học và Công nghệ); Ông Nguyễn Lê Phúc - Phó Cục trưởng Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam; Ông Nguyễn Hải Nam - Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế Quốc hội; GS.TS Hoàng Văn Cường - Ủy viên Ủy ban Tài chính - Ngân sách; Ông Trịnh Minh Anh - Chánh Văn phòng Ban chỉ đạo Liên ngành Hội nhập Quốc tế về Kinh tế.
Đặc biệt, Diễn đàn có sự tham gia của lãnh đạo, đại diện các sở, ngành, các tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp trong nước và quốc tế, hiệp hội ngành nghề, hiệp hội doanh nghiệp địa phương, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các chuyên gia, nhà nghiên cứu.
Về phía ban tổ chức có: Nhà báo Nguyễn Linh Anh - Phó Tổng Biên tập phụ trách Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp.
Ban tổ chức đặc biệt cảm ơn các nhà báo/phóng viên các cơ quan thông tấn báo chí quan tâm, tham dự và đưa tin về Diễn đàn.
Ban tổ chức trân trọng cảm ơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam (VietinBank); Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN); Tổng Công Ty Điện Lực Dầu Khí Việt Nam - Công ty Cổ phần (PV Power) đã đồng hành cùng chương trình.
Tư duy, nhận thức và hành động từ doanh nghiệp
Phát biểu khai mạc Diễn đàn, ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhấn mạnh, với tinh thần quyết liệt, khẩn trương, thích ứng linh hoạt, kịp thời và hiệu quả, ngay từ những tháng đầu, quý đầu của năm 2024, kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả khả quan và đang dần lấy lại đà tăng trưởng.
Theo đó, GDP quý 1 tăng 5,66% so với cùng kỳ năm trước, vượt kịch bản đề ra và là mức tăng cao nhất trong quý 1 kể từ năm 2020 đến nay. Các động lực tăng trưởng truyền thống đều tăng tích cực; các khu vực quan trọng của nền kinh tế như nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp - xây dựng, dịch vụ tiếp tục hồi phục.
Hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu chuyển biến tốt, trong quý 1 nền kinh tế ghi nhận gần 60 nghìn doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường, tăng so với cùng kỳ.
Những kết quả đạt được trong những tháng đầu năm có ý nghĩa quan trọng, tạo đà cho phục hồi và phát triển trong những quý còn lại của năm 2024 - năm tăng tốc để hoàn thành cao nhất các mục tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2021-2025 và là giai đoạn nền tảng giữa kỳ hướng tới các mục tiêu phát triển đến năm 2030.
Khôi phục các động lực tăng trưởng truyền thống và khơi thông, tận dụng hiệu quả các động lực tăng trưởng mới hướng đến phát triển bao trùm, bền vững trở thành yêu cầu vừa mang tính cấp bách vừa mang tính chiến lược lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam trong năm 2024 và những năm tiếp theo.
Ngày 5/1/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2024; Nghị quyết số 02/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2024. Những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng được đề cập trong Nghị quyết số 01, 02 không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng mà còn được xem là “chìa khoá” làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống; khai mở, tận dụng những động lực mới của năm 2024.
Cùng với đó, Nghị quyết 58/NQ – CP ngày 21/4/ 2023 của Chính phủ về một số chính sách, giải pháp trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững đến năm 2025 đã và đang được các bộ, ngành, địa phương triển khai quyết liệt nhằm tháo gỡ các rào cản, khó khăn cho doanh nghiệp… nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, đưa kinh tế xã hội phát triển.
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo động lực phát triển mới là quá trình chuyển đổi về tư duy, nhận thức và hành động. “Cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong các chuyển đổi trên. Bên cạnh những thuận lợi, thời cơ là những khó khăn, thách thức đan xen”, ông Hoàng Quang Phòng nhấn mạnh.
Trong đó, khó khăn lớn là nguồn lực đầu tư. Chỉ riêng chuyển đổi xanh, theo ước tính của Ngân hàng Phát triển châu Á, Việt Nam cần khoảng 368 tỷ USD cho cả giai đoạn đến 2040, tương đương 20 tỷ USD mỗi năm.
>>ĐỘNG LỰC TĂNG TRƯỞNG MỚI: Tư duy, nhận thức và hành động từ doanh nghiệp
Trong khi đó, thị trường tài chính xanh quy mô còn nhỏ, chưa có cơ chế, chính sách khuyến khích dòng vốn tư nhân đầu tư vào các lĩnh vực xanh.
Phó Chủ tịch VCCI cho biết, với những động lực tăng trưởng mới khác như kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, kinh tế chia sẻ… dù các bộ ngành đã kịp thời đề xuất và xây dựng các cơ chế, chính sách tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư kinh doanh nhưng đến nhiều văn bản, quy định pháp luật còn đang trong quá trình hoàn thiện.
Trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn hiện nay, Diễn đàn Doanh nghiệp năm 2024 được tổ chức với chủ đề “Khơi thông động lực tăng trưởng mới” được ông Hoàng Quang Phòng nhận định là đã đi thẳng vào vấn đề đúng và trúng với sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ và nhu cầu của cộng đồng doanh nghiệp.
Từ ý nghĩa và tầm quan trọng đó, Phó Chủ tịch VCCI đề nghị các chuyên gia, doanh nghiệp tại Diễn đàn Doanh nghiệp năm 2024 “Khơi thông động lực tăng trưởng mới” có những trao đổi thẳng thắn, nhìn thẳng vào thực tế để nhận diện những cơ hội và thách thức đặt ra, chia sẻ các bài học kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước; lắng nghe ý kiến, đối thoại từ các nhà quản lý, chuyên gia kinh tế và tiếng nói từ thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp.
Lãnh đạo VCCI kỳ vọng qua các nội dung thảo luận cởi mở, thẳng thắn và trách nhiệm, chúng ta sẽ gợi mở các giải pháp, kiến nghị để khơi thông các động lực tăng trưởng mới.
Cần tận dụng tốt yếu tố thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Nguyễn Tú Anh, Vụ trưởng, Giám đốc Trung tâm thông tin, phân tích và dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương nhận định, dựa vào các số liệu cho thấy, nền kinh tế Việt Nam trong quý I/2024 ghi nhận sự tăng trưởng tích cực so với những năm gần đây.
Theo ông Tú Anh, có hai yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam là tổng cung và tổng cầu. Xét về tổng cầu, xuất khẩu tăng trưởng mạnh mẽ. Xuất khẩu bắt đầu có tăng trưởng dương (hàng tháng so với cùng kỳ) bắt đầu từ tháng 9/2023.
Trong 3 tháng đầu năm 2024 xuất khẩu đã tăng 17% so với cùng kỳ được hỗ trợ bởi chính mặt hàng công nghiệp. Trong đó xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước tăng hơn 26,2% vượt xa tốc độ tăng của doanh nghiệp FDI là 13,9%. Đà xuất siêu vẫn được tiếp tục, quý I xuất siêu hơn 8 tỷ USD. Dự kiến năm 2024 xuất khẩu tăng trưởng khoảng 11%-12%.
Xuất khẩu thuận lợi, xuất siêu duy trì đà tăng mạnh từ năm 2023 tạo điều kiện thuận lợi cho ổn định tỷ giá, điều hành lãi suất, sản xuất công nghiệp, và kỳ vọng của nền kinh tế.
Một yếu tố đáng chú ý khác là giải ngân vốn đầu tư FDI cũng có xu hướng tăng. Theo ông Tú Anh, giải ngân đầu tư nước ngoài trong 6 tháng đầu năm 2023 giảm nhưng bắt đầu tăng nhanh trong 6 tháng cuối năm và cả năm đã tăng 3,5% so với năm 2022. 3 tháng đầu năm 2024 đạt 4,63 tỷ USD tăng 7,1% mức cao nhất trong 5 năm gần đây. Đây sẽ là một cú huých quan trọng cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Đầu tư công cũng là yếu tố đáng chú ý. Năm 2023 đầu tư công đã có đà tăng trưởng tốt hơn 19,7% tạo ra cú huých lớn cho tăng trưởng và 3 tháng đầu năm 2024 cũng cho thấy đà tăng trưởng trên 22%. Ông Tú Anh đánh giá, năm 2024 được kỳ vọng là năm tăng tốc giải ngân đầu tư công.
Chỉ số PMI có giảm nhẹ 49,9 điểm vào tháng 3 sau khi vượt ngưỡng 50 trong tháng 1 và tháng 2, ghi nhận số lượng đơn đặt hàng giảm Tuy nhiên, mức giảm của sản lượng là nhỏ, và chỉ giới hạn trong các công ty sản xuất hàng hóa trung gian, trong khi các công ty sản xuất hàng hóa tiêu dùng và hàng hóa đầu tư cơ bản vẫn ghi nhận tăng trưởng
Ông Tú Anh đánh giá, bối cảnh bên ngoài có 1 số yếu tố thuận lợi để có thể tiếp tục duy trì đà tăng trưởng của Quý I/2024. Lãi suất điều hành của các Ngân hàng Trung ương (NHTW) sẽ không tăng và có nhiều khả năng giảm trong năm 2024. Hiện nay NHTW Thụy Sĩ đã giảm 0,25 điểm % ls điều hành. Các NHTW khác như ECB, Fed, BOJ, PBoC (TQ), BOE (Anh) vẫn giữ nguyên lãi suất nhưng phát tín hiệu sẽ giảm lãi suất. Áp lực dòng tiền và lãi suất trong nước giảm hơn.
Giá hàng hóa cơ bản năm 2024 được dự báo giảm 3,3%, giá năng lượng giảm 3,8% so với năm 2023. Giá dầu Brent trung bình năm 2024 dự kiến chỉ đạt khoảng 81USD/thùng giảm 2,1 USD/thùng so với năm 2023. Mức giá các hàng đầu vào sẽ có xu hướng giảm sút hơn so với trước đại dịch COVID-19. Sự sút giảm giá đầu vào trên thị trường quốc tế là yếu tố thuận lợi cho những nước đầu vào quá trình sản xuất chủ yếu phụ thuộc vào nhập khẩu nhu Việt Nam.
>>ĐỘNG LỰC TĂNG TRƯỞNG MỚI: Cần tận dụng tốt yếu tố thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế
Mặc dù lạm phát không giảm nhanh như kỳ vọng nhưng vẫn đang cho thấy có xu hướng giảm. Điều này cũng góp phần giảm áp lực lên chính sách tiền tệ của các quốc gia khác.
Đồng thời, một yếu tố quan trọng khác là đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (ODI) của Trung Quốc vào ASEAN đã tăng với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm CAGR đạt 8% từ năm 2018 đến năm 2022 (các ngành dệt may, điện tử tiêu dùng và xe điện,…).
Cùng với đó, dịch chuyển đầu tư ra khỏi Trung Quốc cũng tăng. Kể từ tháng 4/2022 dòng vốn ròng liên tục chảy ra khỏi Trung Quốc lũy kế đến tháng 12/2024 thì tổng dòng vốn ròng chảy ra khỏi Trung Quốc đã đạt 1697,2 tỷ USD. Ông Tú Anh cho rằng, Việt Nam tận dụng được xu hướng này để
Tuy nhiên, ông Tú Anh cho rằng, bên cạnh những yếu tố thuận lợi vẫn còn tồn tại những điểm khó khăn. Cụ thể, khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp còn gặp khó do thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa trở thành kênh hỗ trợ cho doanh nghiệp. Cùng với đó, thị trường bất động sản vẫn chưa có sự khởi sắc. Vị chuyên gia lưu ý, cả hai yếu tố này sẽ tác động đến khả năng cung ứng của nền kinh tế và cần tập trung để khơi thông trong thời gian tới.
Trong thời gian tới, ông Tú Anh đánh giá, Việt Nam cần lưu ý đến một số yếu tố có thể tác động đến tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, các rủi ro địa chính trị như bùng nổ căng thẳng tại Trung Đông sẽ làm giá dầu, việc đóng cửa biển Đỏ do chiến sự sẽ gây đứt gãy chuỗi cung ứng. Bên cạnh đó, chiến sự Nga –Ukraine có thể lan rộng ngoài tầm kiểm soát sẽ dẫn đến tổn hại đến dòng chảy thương mại.
Mặt khác, cạnh tranh địa chính trị giữa các nước lớn đang ngày càng sâu sắc làm ảnh hưởng tiêu cực đến các dòng vốn và thương mại. Cùng với đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn chưa được khơi thông, gần 300 nghìn tỷ đến hạn trong năm 2024 có thể tạo ra rủi ro lớn cho nền kinh tế. Thị trường bất động sản không được khơi thông sẽ trở thành điểm nghẽn lớn.
Hiện yếu tố thuận lợi còn rất lớn nhưng vẫn còn khó khăn trong nội tại và rủi ro. Tuy nhiên, ông Tú Anh cho biết, nếu các yếu tố thuận lợi được tận dụng tối đa, hạn chế khó khăn và các rủi ro được nhận kiểm soát chặt chẽ, cùng với quyết tâm mạnh mẽ từ Chính phủ, dự kiến mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6-6,5% có thể đạt được.
Nguồn lực từ thể chế
Điểm lại bối cảnh từ đầu năm 2024, TS.Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) nhấn mạnh: Kinh tế toàn cầu và Việt Nam phát triển, tăng trưởng trong bối cảnh tiếp tục có sự đan xen của khó khăn và thuận lợi. Với cách tiếp cận toàn diện, kết hợp phục hồi và phát triển kinh tế xã hội với xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, Việt Nam đã đạt được không ít kết quả kinh tế-xã hội tích cực trong quý I/2024. Nếu duy trì tốt đà phục hồi trong các tháng cuối năm, Việt Nam có thể hướng tới hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế cả năm 2024.
Mặt khác, lạm phát tại Việt Nam tương đối ổn định; các nhà đầu tư nước ngoài duy trì niềm tin và sự lạc quan với thị trường Việt Nam. Đặc biệt, khu vực kinh tế trong nước đã đạt mức tăng trưởng xuất khẩu và tăng trưởng nhập khẩu cao hơn so với khu vực đầu tư nước ngoài cho thấy năng lực thích ứng của cộng đồng doanh nghiệp trong nước ngay cả trong bối cảnh thế giới có nhiều khó khăn, bất định, đóng góp vào đà phục hồi tăng trưởng xuất khẩu của cả nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được, TS. Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng CIEM lưu ý một số diễn biến để tập trung xử lý. Đó là, triển vọng kinh tế thế giới còn khá nhiều bất định, nhiều nước gia tăng quy định nhằm thúc đẩy các chuỗi giá trị giảm phát thải các-bon, ảnh hưởng đến khả năng thâm nhập của hàng xuất khẩu ở Việt Nam. Giải ngân tín dụng còn tương đối chậm; chi phí của một số hàng hóa, dịch vụ đầu vào chịu áp lực tăng.
Việc thực hiện điều chỉnh lương tối thiểu vùng cho người lao động ở khu vực doanh nghiệp có thể làm tăng chi phí lao động. Trong khi đó, dù đã có nhiều giải pháp chính sách, năng suất lao động chưa được cải thiện ở mức tương xứng.
Việt Nam đã tương đối thành công trong việc giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn, và bảo đảm an sinh xã hội. Đó chính là những nền tảng quan trọng để quyết liệt hơn với những giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có chất lượng, có tính bền vững. Vì vậy, bên cạnh các giải pháp tài khóa và tiền tệ, chúng ta cần phải quyết liệt đổi mới tư duy.
Điểm tích cực, TS. Trần Thị Hồng Minh nhấn mạnh: chúng ta đã có những nền tảng cho “đổi mới tư duy” cải cách thể chế. Những năm gần đây, Quốc hội, Chính phủ đã quyết liệt đồng hành, tháo gỡ không ít rào cản về mặt thể chế, chính sách nhằm mở rộng không gian kinh tế, giảm chi phí không cần thiết cho doanh nghiệp. Các quy hoạch được phê duyệt đã lồng ghép những tư duy mới, gắn với phát triển kinh tế đô thị, liên kết đô thị-nông thôn…
Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh không còn được nhìn nhận một cách rời rạc mà có sự gắn kết tương hỗ với nhau và được ưu tiên thực hiện khẩn trương ngay trong quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế. Nhờ đó, Việt Nam đang được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về tư duy cải cách.
Liên quan đến nội dung này, CIEM vừa được các nền kinh tế thành viên Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) tín nhiệm, ủng hộ làm Trưởng nhóm xây dựng Chương trình cải cách cơ cấu mới của APEC cho giai đoạn 2026-2030, dự kiến sẽ được công bố vào năm 2025.
>>ĐỘNG LỰC TĂNG TRƯỞNG MỚI: Nguồn lực từ thể chế
Trên nền tảng ấy, Việt Nam cần quyết liệt hơn để cải cách thể chế giúp phát huy hiệu quả hơn nội lực của nền kinh tế. Nội lực ấy không chỉ giới hạn ở lượng tiền, vàng và các tài sản khác mà người dân Việt Nam đang nắm giữ. Thể chế chính là một nguồn lực, thậm chí là “chìa khóa” quan trọng.
Một số định hướng chính sách nhằm “làm mới” động lực cải cách thể chế tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, TS Trần Thị Hồng Minh nhấn mạnh 3 nội dung.
Thứ nhất, đẩy nhanh cải cách môi trường kinh doanh, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính, đặc biệt là theo những mục tiêu, nhiệm vụ đề ra tại Nghị quyết số 02/NQ-CP năm 2024 của Chính phủ. Hoàn thiện thể chế liên kết vùng, nhằm tạo động lực cho liên kết giữa các địa phương và doanh nghiệp ở các địa phương theo tư duy chuỗi giá trị để “cùng hợp tác, cùng thắng”.
Nghiên cứu, đề xuất và triển khai thực hiện cơ chế đặc thù cho phát triển một số vùng kinh tế-xã hội, đô thị lớn; sớm rà soát, hoàn thiện khung chính sách cho các mô hình kinh tế mới (kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế ban đêm, kinh tế sáng tạo) để tạo không gian kinh tế lớn hơn cho cộng đồng doanh nghiệp.
Thứ hai, tập trung tháo gỡ các khó khăn về tiếp cận các thị trường xuất khẩu, đẩy nhanh tạo thuận lợi thương mại, khuyến khích đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tìm kiếm và khai thác hiệu quả các thị trường ngách.
Thứ ba, hoàn thiện và triển khai hiệu quả khung chính sách cải thiện năng suất lao động, gắn với thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng kỹ năng và chuyển đổi kỹ năng cho người lao động để thích ứng với các mô hình kinh tế mới, chính thức hóa khu vực kinh tế phi chính thức, và thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI với khu vực doanh nghiệp trong nước. Trong quá trình này, tạo cơ hội và động lực cho doanh nghiệp chủ động tham gia chuyển đổi kỹ năng cho người lao động chính là một yêu cầu quan trọng.
Nền tảng từ cắt giảm thủ tục hành chính
Ông Nguyễn Hải Nam - Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế Quốc hội cho biết thực tế, trong năm vừa qua Quốc hội vừa thông qua 3 đạo Luật quan trọng bao gồm: Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản và Luật Các tổ chức tín dụng cũng thể hiện mạnh mẽ tinh thần cải cách, cắt giảm thủ tục hành chính.
Cụ thể, trong Luật Đất đai vừa được ban hành có nhiều quy định đáng chú ý như: sửa đổi, bổ sung một số quy định tạo điều kiện công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài có thể tăng them quyền tiếp cận đất đai, thống nhất liên thông với Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở,…cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp có thể nhận quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất 2 lúa trong hạn mức cho phép, trường hợp quá hạn mức thì phải có phương án sử dụng đất trồng lúa và được UBND cấp huyện phê duyệt… xây dựng được hệ thống quy hoạch sử dụng đất đồng bộ ở cả 3 cấp, song vẫn đảm bảo đồng bộ về quy hoạch,…
Hay như Luật Kinh doanh bất động sản làm rõ phạm vi điều chỉnh không chồng chéo với các bộ luật khác như: Bộ luật Dân sự, Luật Nhà ở, Luật Thi hành án dân sự,… bên cạnh đó, bổ sung các quy định để đảm bảo các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản có đầy đủ các năng lực để thực hiện dự án, bổ sung hoàn thiện các quy định về công khai thông tin về bất động sản, dự án bất động sản, thể chế hóa các nội dung của Nghị quyết 18-NQ/TW, bổ sung hoàn thiện các quy định về chuyển nhượng dự án bất động sản,…
Luật Các tổ chức tín dụng, đã sửa đổi bổ sung các quy định về tăng cường quản trị, điều hành của các tổ chức tín dụng theo thông lệ tốt nhất của quốc tế về quản trị các tổ chức tín dụng; tăng cường nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng quản trị của các ngân hàng và ban kiểm soát; bổ sung các quy định nhằm hạn chế tình trạng thao túng, chi phối tổ chức tín dụng bên cạnh các yêu cầu về quản trị điều hành; bổ sung thêm một chương nữa về ngân hàng chính sách;…
>>Nền tảng từ cắt giảm thủ tục hành chính
“Luật Đất đai, Luật Các tổ chức tín dụng cũng rất đẩy mạnh về hoạt động chuyển đổi số, ví dụ như Luật Đất đai đã có thêm những quy định để số hóa công tác quản lý đất đai, việc này được Chính phủ quan tâm, chỉ đạo rất quyết liệt thời gian qua. Trong Luật Các Tổ chức tín dụng cũng vậy, cũng có một số quy định để thúc đẩy phát triển của ngân hàng số, ngân hàng điện tử và đây là một trọng tâm để phát triển kinh tế số theo chủ trương của Đảng và Nhà nước”, ông Nguyễn Hải Nam cho biết.
Phiên thảo luận dưới góc nhìn của các lãnh đạo từ các ngành các lĩnh vực, đại diện các hiệp hội đều đóng góp quan trọng trong sự tăng trưởng chung GDP của nền kinh tế Việt Nam. Những ý kiến này sẽ được tiếp thu, ghi nhận và đúc rút thành các giải pháp mang tính thực tiễn. Ông Nguyễn Linh Anh - Phó Tổng Biên tập phụ trách Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp điều phối phiên thảo luận.
Mở đầu phiên thảo luận, ông Trịnh Minh Anh, Chánh Văn phòng Ban chỉ đạo Liên ngành Hội nhập Quốc tế về Kinh tế nhận định, kinh tế thế giới có thể tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách khi mà các yếu tố ảnh hưởng chặt chẽ đến tăng trưởng kinh tế vẫn còn ngổn ngang và chưa được giải quyết triệt để. Vấn đề xung đột địa chính trị, an ninh lương thực, an ninh năng lượng, biến đổi khí hậu, lạm phát, tiền tệ, nợ công… là vấn đề mang tính toàn cầu, do đó, có những tác động đến nền kinh tế nước ta.
Trong khi đó, Việt Nam đang tham gia 19 hiệp định thương mại tự do (FTA). Việc thực thi FTA đã tạo động lực, mở rộng thị trường, cơ hội thương mại, xuất nhập khẩu và đầu tư. Theo ông Trịnh Minh Anh, gần 30 năm kể từ khi nước ta ký kết và thực thi FTA đầu tiên với các nước ASEAN có hiệu lực vào năm 1995, cho đến năm 2003 khi Việt Nam ký kết FTA ASEAN - Trung Quốc với tư cách thành viên ASEAN, tăng trưởng xuất nhập khẩu của nước ta mới có chuyển biến rõ rệt. Cho đến nay, chúng ta đã ký kết 16 FTA vừa với tư cách thành viên ASEAN vừa với tư cách một bên độc lập, quy mô xuất nhập khẩu ngày càng mở rộng, độ phủ rộng hầu hết các châu lục với gần 60 nền kinh tế, tổng GDP chiếm gần 90% GDP thế giới. Việc tham gia các FTA đã góp phần đưa nền kinh tế nước ta duy trì mức tăng trưởng cao từ 6 - 7%/năm, kinh tế vĩ mô ngày càng ổn định; lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm.
Trong 5 năm 2018 – 2022, tốc độ tăng kim ngạch xuất, nhập khẩu bình quân của Việt Nam đạt 11,3%/năm. Trong giai đoạn kinh tế thế giới và trong nước chịu tác động tiêu cực của dịch Covid-19, hoạt động xuất, nhập khẩu tuy suy giảm nhưng vẫn đạt mức tăng trưởng dương. Năm 2023, kinh tế thế giới tiếp tục gặp nhiều khó khăn, lạm phát mặc dù đã hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao, nhiều nền kinh tế lớn duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt; nhu cầu hàng hóa thế giới và một số thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam như Mỹ, Trung Quốc EU, ASEAN, Nhật Bản sụt giảm; thương mại và đầu tư toàn cầu tiếp tục thu hẹp; hàng rào bảo hộ, phòng vệ thương mại gia tăng đã khiến nhiều quốc gia tăng trưởng chậm lại. Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2023 không đạt được như kỳ vọng, nhưng cán cân thương mại tiếp tục ghi nhận xuất siêu năm thứ 8 liên tiếp với mức thặng dư kỷ lục 28 tỷ USD, gấp 2,3 lần năm 2022.
“Đánh giá khách quan từ các tổ chức quốc tế và các cơ quan trong nước, trong bối cảnh khó khăn chung của khu vực và thế giới, xuất, nhập khẩu năm 2023 có sự hỗ trợ rất lớn từ hội nhập kinh tế quốc tế, giúp Việt Nam hợp tác thương mại với nhiều quốc gia hơn và trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu”, ông Trịnh Minh Anh nhấn mạnh.
Theo đó, nhiều ngành hàng có thế mạnh của Việt Nam tiếp tục ghi dấu ấn khi liên tục giữ vị trí nhóm đầu trong kim ngạch xuất khẩu của thế giới. Việt Nam đã tích cực tranh thủ cơ hội từ sự phục hồi của các thị trường lớn, truyền thống để đẩy mạnh xuất khẩu. Cán cân thương mại xuất siêu chủ yếu do nhập khẩu giảm mạnh hơn so với xuất khẩu, để thấy khó khăn trong sản xuất hàng hóa phục vụ xuất khẩu.
Năm 2023, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 96,8 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 111,6 tỷ USD. Cán cân thương mại hàng hóa đạt xuất siêu từ một số thị trường chính là: Hoa Kỳ ước đạt 83 tỷ USD, giảm 12,6% so với năm trước; EU ước đạt 29,1 tỷ USD, giảm 7,6%; Nhật Bản 1,6 tỷ USD, tăng 90,3%. Cán cân thương mại hàng hóa nhập siêu một số thị trường chính là: Trung Quốc 49,9 tỷ USD, giảm 17,6%; Hàn Quốc 29,1 tỷ USD, giảm 23,3%; ASEAN 8,3 tỷ USD, giảm 37,2%.
“Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc đàm phán, ký kết và thực thi các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương, trong đó có các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tiêu chuẩn cao, đã giúp cho năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của doanh nghiệp nước ta được cải thiện rõ rệt, đặc biệt là cơ hội để tăng tính bền vững trong phát triển, không chỉ trong phát triển thị trường mà còn định hình khả năng tham gia vào các chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng của khu vực và toàn cầu”, ông Trịnh Minh Anh chia sẻ.
Đồng thời khẳng định, việc tham gia các FTA đã thực sự tạo thêm động lực và mang lại nhiều tác động tích cực cho kinh tế Việt Nam. Thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng và đa dạng hóa; thị trường dịch vụ tài chính phát triển hơn với sự tham gia của nhiều nhà đầu tư nước ngoài; hệ thống thể chế, chính sách cũng từng bước được hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực thi cam kết trong các FTA. Cùng với tham gia WTO từ năm 2007, việc thực thi các FTA đã góp phần thúc đẩy GDP của Việt Nam tăng hơn 300%, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 350%. Kết quả này là minh chứng cho chủ trương đúng đắn của Đảng ta về hội nhập kinh tế quốc tế; trong đó có việc tham gia các FTA và chỉ đạo kịp thời của Chính phủ trong tăng cường thực hiện và khai thác hiệu quả các hiệp định thương mại tự do hướng tới đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng hiệu lực và hiệu quả.
Mặc dù những cơ hội mà các FTA là rất lớn, tuy nhiên Chánh Văn phòng Ban chỉ đạo Liên ngành Hội nhập Quốc tế về Kinh tế cho rằng cần nhận diện được những rủi ro và thách thức.
Cụ thể, rủi ro thách thức nhất là về năng lực cạnh tranh, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật cũng như việc thực thi các cam kết trong những lĩnh vực mới chưa có trong các FTA trước đây như vấn đề lao động, công đoàn, môi trường, thách thức về bảo đảm ổn định chính trị- xã hội, tạo môi trường ổn định cho phát triển kinh tế.
Ngoài ra, những hạn chế nội tại như sự quan tâm của người dân, doanh nghiệp, chính quyền địa phương chưa đúng mức và chưa dành nguồn lực tương xứng cũng đã và đang là rào cản khiến cho không ít cơ hội từ FTA bị bỏ lỡ, tạo ra thách thức trong việc triển khai và nắm bắt cơ hội.
Vì vậy, việc đánh giá tác động và tình hình thực hiện FTA tại thời điểm này là thực sự cần thiết đối với cả các doanh nghiệp và nền kinh tế, đồng thời hỗ trợ và giúp cho công tác thực thi trong thời gian tới được hiệu quả hơn, mang lại lợi ích lớn hơn cho nước ta.
Ông Trịnh Minh Anh cho biết, năm 2024 được dự báo là khu vực và thế giới sẽ vẫn đối diện với nhiều rủi ro, biến động khó lườngvới nhiều cơ hội và thách thức đan xen, nhiều thị trường ngày càng đề cao những tiêu chuẩn hàng hóa liên quan đến vấn đề an toàn cho người tiêu dùng và phát triển bền vững, chống biến đổi khí hậu. Xu hướng bảo hộ thương mại xuất hiện nhiều hơn, nhiều nước có các biện pháp đưa đầu tư về trong nước, dựng nên các rào cản thương mại để bảo vệ, thúc đẩy sản xuất trong nước.
Nhìn vào những thay đổi của thị trường, việc chuyển đổi sang sản xuất xanh hóa không còn là lựa chọn mà là yêu cầu bắt buộc, là mệnh lệnh của thị trường. Bên cạnh yếu tố về giá cả, chất lượng sản phẩm và thời gian giao hàng, xanh hóa và phát triển bền vững là những tiêu chí cạnh tranh mà các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản… yêu cầu ở các nhà cung cấp. Doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam muốn tồn tại phải vượt qua bài toán ‘xanh’ trong hoạt động sản xuất, với nhiều tiêu chí như xử lý đạt tiêu chuẩn chất thải phát sinh, sản xuất tiết kiệm năng lượng, giải pháp tái chế chất thải.
Hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu và đầu tư năm 2024 có nhiều cơ hội để phục hồi và tăng trưởng khi vấn đề hàng tồn kho tại nhiều quốc gia đang dần được khắc phục. Việc nỗ lực trong đẩy mạnh đàm phán, đa dạng hóa thị trường xuất, nhập khẩu của Việt Nam sẽ đem lại lợi thế cạnh tranh hơn cho hàng xuất khẩu trong thời gian tới.
Do đó, để thực thi hiệu quả FTA ông Trịnh Minh Anh cho rằng, cần chiến lược, chủ động, đổi mới mạnh mẽ. Theo đó, điều quan trọng là phải tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm tính nhất quán, đồng bộ, công bằng, minh bạch, không phân biệt đối xử, đúng trình tự thủ tục nhằm hạn chế tranh chấp phát sinh với nhà đầu tư nước ngoài và giải quyết hiệu quả các tranh chấp nếu có. Đồng thời tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế cảnh báo sớm để phòng ngừa tranh chấp.
Cùng với đó, cần có sự phối hợp đồng bộ của tất cả các cấp, ngành, địa phương và doanh nghiệp. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc triển khai và thực thi các FTA đã có hiệu lực trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, nâng cao sức mạnh tổng hợp và năng lực cạnh tranh.
Như vậy, để đạt mục tiêu thực thi một cách hiệu quả, tận dụng được các cơ hội mà FTA mang lại, ông Trịnh Minh Anh nhấn mạnh, cần có chiến lược bài bản, tinh thần tích cực, chủ động, đổi mới mạnh mẽ cả tư duy và hành động nhằm góp phần khơi thông và thúc đẩy các động lực tăng trưởng cho giai đoạn mới.
Phát biểu tại phiên thảo luận, ông Nguyễn Quốc Hiệp - Chủ tịch Hiệp hội các nhà thầu xây dựng Việt Nam đã có những chia sẻ liên quan tới khó khăn của ngành xây dựng trong thời gian hiện nay. Theo quan điểm của ông Hiệp, cơ hội hiện tại chỉ đang mở rộng cho các doanh nghiệp xây dựng lớn, đặc biệt là những doanh nghiệp chuyên về phát triển hạ tầng kinh tế hoặc xây dựng các dự án đường cao tốc. Trong khi đó, những công ty với quy mô vốn đầu tư nhỏ và trung bình đang phải đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn trong việc tìm kiếm cơ hội và thị trường mới.
Bên cạnh đó, ông Hiệp cũng nhấn mạnh về tình trạng mất cân bằng giữa nợ thu và nợ trả của các doanh nghiệp trong ngành xây dựng. Tình trạng này thường xảy ra khi các doanh nghiệp đầu tư tiền vào mua vật liệu xây dựng trước, nhưng sau đó gặp khó khăn trong việc thu hồi tiền sau khi dự án đã hoàn thành. Để giải quyết vấn đề này, Hiệp hội đã và đang đề xuất với Chính phủ việc thiết lập các cơ chế bảo vệ cho nhà thầu, nhằm đảm bảo công bằng và bền vững trong hoạt động kinh doanh của ngành này.
Để giải quyết vấn đề nợ đọng trong ngành xây dựng, ông Hiệp đề xuất cần thiết lập một cơ chế chặt chẽ giữa chủ đầu tư và nhà thầu. Ông cho rằng cơ chế đơn giá định mức Nhà nước hiện nay đã lạc hậu và gây ra những bất cập, tạo nên tình trạng thị trường hai giá. Do đó, việc hình thành đơn giá tổng hợp, tương tự như các nước tiên tiến, nhằm giải quyết những hạn chế trên là vô cùng quan trọng. Ngoài ra, ông Hiệp cũng đưa ra nhận xét trong những năm gần đây, hầu hết các ngành hàng, đặc biệt là xuất khẩu gạo, hải sản hay dệt may đều có những chuyển biến tích cực, chỉ có riêng đầu tư bất động sản là đi xuống.
Lấy ví dụ về vấn đề định giá đất đai, theo ông hiện đang chưa có một quy định rõ ràng mà chỉ theo quy luật giá sau tăng hơn giá trước, từ đó khiến không thể kiểm soát thị trường, gây ra tâm lý lo lắng cho các nhà đầu tư.Với vấn đề này, ông Hiệp kiến nghị cần thiết lập một hành lang pháp lý chặt chẽ, tăng cường đầu tư từ tư nhân và mở rộng sự tham gia của các doanh nghiệp vào việc đóng góp ý kiến vào Luật đất đai.
Ông Phạm Hồng Quất - Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và Doanh nghiệp KHCN, Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, hiện nay, các quốc gia trên thế giới đang tập trung vào những động lực tăng trưởng mới như con người, trí tuệ,công nghệ… Nhưng để những yếu tố này trở thành động lực cho tăng trưởng kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn.
Hiện nay, ông Quất cho rằng, khai thác lợi thế con người thế hệ mới cũng như khơi thông động lực cho thế hệ trẻ là yếu tố quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo ông Quất nhận định, thế hệ trẻ của Việt Nam có kỹ năng, trình độ ngôn ngữ, chủ động, sáng tạo, cũng như dám đối mặt với thách thức và chấp nhận rủi ro.
Do đó, ông Quất cho rằng, cần có hệ sinh thái để hỗ trợ và khuyến khích thế hệ trẻ thử nghiệm và phát triển. Trong đó, lấy doanh nghiệp và các Hiệp hội doanh nghiệp là trụ cột trong hệ sinh thái, cũng như tăng cường kết nối giữa các khu vực trong hệ sinh thái.
Đồng thời, ông Quất cho biết, cần có sự cam kết hỗ trợ từ Chính phủ để thúc đẩy đưa các sản phẩm công nghệ nội địa ra thị trường như mua sắm công cần có chính sách ưu tiên dùng các sản phẩm do doanh nghiệp trong nước sản xuất để tạo cơ hội cho các sản phẩm nghiên cứu từ các Viện nghiên cứu, Trường đại học, các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
Ông Quất cũng đề nghị, cần tăng cường các giải pháp trong thu hút nguồn lực tài chính, hỗ trợ tiếp cận thị trường và mạng lưới hỗ trợ quốc tế để ngày càng có nhiều sản phẩm và dịch vụ sáng tạo, từ đó giúp thế hệ trẻ Việt Nam tiếp cận với các nguồn lực, kiến thức và công nghệ tiên tiến, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững và hiệu quả.
Ông Nguyễn Quang Huân - Uỷ viên Uỷ ban Khoa học Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam, Chủ tịch HĐQT công ty CP Halcom Việt Nam bày tỏ: tăng trưởng xanh không phải cuộc chơi của các nước lớn mà là xu thế phát triển tất yếu của toàn cầu. Vấn đề là chúng ta thực hiện như thế nào?
Ông Huân cho rằng, khi nói đến tăng trưởng, chúng ta không nhấn mạnh đến chất lượng tăng trưởng thì rất khó phát triển. Các chuyên gia tại diễn đàn hôm nay đã đề cập đến nội dung này. Cụ thể là nguy cơ hàng hoá xuất khẩu không thâm nhập các thị trường như Mỹ, châu Âu với các quy định mới được áp dụng như cơ chế CBAM yêu cầu hàng hoá xuất khẩu nếu tín chỉ carbon cao hơn quy định sẽ bị đánh thuế cao. Đây là hàng rào phi thuế quan, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải đi trước để nâng cao sức cạnh tranh về giá thành, chất lượng.
Tăng trưởng xanh tác động trực tiếp vào năng suất lao động, sản phẩm, doanh thu của doanh nghiệp. Tăng trưởng xanh nằm trong nội hàm kinh tế phát triển bền vững với 3 yếu tố chính là kinh tế, môi trường và xã hội. Nội dung này đã được Liên Hợp quốc đưa ra từ năm 1996 và đang trở thành sự lựa chọn phát triển của các quốc gia.
“Thực hiện tăng trưởng xanh không phải là vấn đề đơn giản và dễ dàng. Tăng trưởng xanh gắn liền với năng suất lao động cao, tiêu thụ điện năng cho một đơn vị sản phẩm phải giảm, góp phần giảm phát thải ròng, giảm phát thải khí nhà kính” – ông Huân nói.
Ông Huân cho biết, sau hội nghị COP26, Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia tăng trưởng xanh và một số quyết định quan trọng đề cập các chỉ tiêu quan trọng như giảm khí thải trong các ngành nông lâm nghiệp, giao thông vận tải… Đây là những phần việc thách thức, đòi hỏi nguồn lực lớn. Nếu không có những chính sách thu hút nguồn lực từ đầu tư tư nhân sẽ rất khó thực hiện.
“Thực hiện tăng trưởng xanh, vai trò và trách nhiệm của doanh nghiệp là rất lớn. Nếu doanh nghiệp không tập trung đầu tư thay đổi công nghệ, chuyển dịch năng lượng, giảm phát thải thì công cuộc tăng trưởng xanh cũng có thể chậm lại” – ông nhấn mạnh.
Chia sẻ tại phiên thảo luận, GS.TS Hoàng Văn Cường, Ủy viên Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội cho biết, quý I/2024 tăng trưởng kinh tế đạt kết quả tốt hơn so với cùng kỳ năm trước. Đóng góp cho tăng trưởng tích cực đó là trụ cột xuất khẩu. Để doanh nghiệp tiếp cận thị trường thế giới, mấu chốt cần tăng cường năng lực.
Theo TS. Hoàng Văn Cường, muốn doanh nghiệp có đủ năng lực tiếp cận thị trường thế giới, trước hết cần có sự hỗ trợ, hợp tác lẫn nhau giữa các doanh nghiệp, đồng thời cần có định hướng cơ quan nhà nước, ngành hàng. Đơn cử, muốn tăng cường xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc, Nhà nước cần có định hướng để doanh nghiệp trong nước bắt tay với nhau thành lập chuỗi cung ứng. Làm được như vậy, những nguồn lực nhỏ sẽ bổ trợ lẫn nhau tạo ra một nguồn lực lớn.
Vấn đề khác cần quan tâm được TS. Hoàng Văn Cường đề cập là dòng đầu tư. Thời gian qua, Việt Nam đã tiếp nhận nhiều tập đoàn, doanh nghiệp lớn đầu tư, tuy nhiên chúng ta chưa có được doanh nghiệp trong nước đủ năng lực để bắt tay và đồng hành, tạo sự lan tỏa của nguồn vốn.
Vì vậy, hợp tác các doanh nghiệp trong nước cùng với sự hỗ trợ từ chính sách của cơ quan quản lý góp phần nâng cao năng lực, để các doanh nghiệp trong nước trở thành những doanh nghiệp lớn có khả năng song hành với nhà đầu tư nước ngoài. Khi đó chúng ta mới có thể tiếp cận công nghệ cũng như biến những lợi thế của đầu tư nước ngoài thành lợi thế của mình. Đây là việc cần thiết để tạo ra một nền kinh tế độc lập tự chủ.
Đồng tình với quan điểm trước đó, TS. Hoàng Văn Cường nhấn mạnh: thể chế có vai trò rất quan trọng nên cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách để tạo thay đổi; trong đó, cần đổi mới cơ chế quản lý cho các doanh nghiệp nhà nước.
TS. Hoàng Văn Cường cũng đề cập đến khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp với quan điểm doanh nghiệp không nên quá trông chờ vào nguồn vốn với lãi suất thấp. Việc tiếp cận vốn thông qua thị trường trái phiếu rất quan trọng và thị trường này cần được cải cách đổi mới. Theo đó, không nên quá thắt chặt, cũng không nên quá nới lỏng. Điều này sẽ hỗ trợ rất tốt nguồn lực cho doanh nghiệp.
Ông Nguyễn Văn Thể - Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh Quảng Ninh cho biết, mặc dù những báo cáo, tổng kết từ các cơ quan quản lý đều cho thấy có sự tăng trưởng tốt, tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn còn đó nhiều khó khăn, vướng mắc. Trong đó, về vấn đề kết nối, quá trình hoạt động, các doanh nghiệp cũng luôn tìm kiếm cơ hội với các đối tác nước ngoài.
Đơn cử như vừa qua Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh cũng đã kết nối với các doanh nghiệp của Quảng Đông, Trung Quốc. Quá trình thông tin giữa hai bên, phía bạn cũng đề xuất để cho các doanh nghiệp Việt Nam có những gian hàng giới thiệu sản phẩm và các doanh nghiệp nội địa cũng mong muốn đưa sản phẩm qua đó để quảng bá thì đều nhận được sự đồng ý. Tuy nhiên, khi đề cập đến xúc tiến du lịch thì phía đối tác cũng không mấy mặn mà bởi du lịch Việt Nam còn một số rào cản về thủ tục và chi phí…
Về nâng cao năng lực cạnh của các doanh nghiệp, tại một số diễn đàn xúc tiến doanh nghiệp Việt Nam mang sản phẩm để giới thiệu đến đối tác, tuy nhiên, họ lại mời lại các doanh nghiệp trong nước với giá rẻ hơn bởi họ có được những chính sách ưu tiên, từ đó có thể thấy, các doanh nghiệp đang thua trên sân nhà. Hiện nay, tại các tỉnh như Quảng Ninh, các Khu công nghiệp còn rất rộng nhưng việc xúc tiến cũng rất khó khăn.
Bên cạnh đó, về việc liên kết để thúc đẩy hoạt động cho các doanh nghiệp nhưng hiện nay, một số tỉnh cũng không chưa thể hiện sự cầu thị, lắng nghe, việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp vẫn còn những tồn tại, hạn chế.Vì vậy, doanh nghiệp mong muốn cần có những cuộc làm việc, các diễn đàn có sự có mặt của các sở, bộ, ngành, để các đơn vị trực tiếp lắng nghe những khó khăn của doanh nghiệp, cùng chia sẻ, tháo gỡ cho các doanh nghiệp.
Ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST) chia sẻ, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ 3 tháng đầu năm 2024 đạt 3,4 tỷ USD, tăng 18,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Riêng sản phẩm gỗ là nhóm mặt hàng chế biến sâu, có giá trị gia tăng cao, đạt 2,3 tỷ USD, tăng 22,9%.
Ở chiều ngược lại, trong 3 tháng đầu năm, doanh nghiệp gỗ Việt nhập khẩu 1,143 triệu m3 gỗ nguyên liệu, tăng 22,5% về khối lượng và 10,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.
Ông Hoài, nhấn mạnh chúng ta nói nhiều tới tăng trưởng xuất khẩu mà ít nói tới chất lượng của tăng trưởng, chất lượng của xuất khẩu. Hiện nay, ông Hoài cho biết các chi phí đầu vào tăng lên, kể cả chi phí nhân công nhưng giá không tương xứng.
“Hầu hết doanh nghiệp chúng tôi sản xuất theo mẫu mã đặt hàng của nước ngoài, bị ép giá rất nhiều. Như vậy, phần làm thì nhiều nhưng giá trị ít. Về lâu dài, cách làm này không bền vững”, ông Hoài chia sẻ. Đồng thời cho rằng nhận định về hồi phục và tăng trưởng lạc quan có vẻ không đúng với tất cả ngành hàng.
Với chuỗi cung ứng ngành gỗ gồm từ rừng trồng của các nông hộ, người trồng rừng tới các doanh nghệp chế biến, xuất khẩu gỗ, Phó Chủ tịch VIFOREST cho biết, các chính sách để tạo động lực đã được Chính phủ tạo ra, từ cơ chế, tín dụng,… Tuy nhiên, vẫn còn một số khâu liên quan thể chế, chi phí thực thi pháp luật ví dụ như vấn đề hoàn thuế GTGT vẫn nan giải ở một số địa phương thì cần được cải thiện.
Bên cạnh đó, sự tăng trưởng ngành công nghiệp gỗ trong hơn hai thập kỷ vừa qua dựa vào một số lợi thế so sánh như chi phí đầu vào, nhân công thấp. “Nhưng đã đến thời kỳ không thể dựa vào những lợi thế so sánh đó”, Phó Chủ tịch VIFOREST nhấn mạnh.
Ông Ngô Sỹ Hoài cũng cho rằng, hiện các doanh nghiệp xuất khẩu mới tham gia vào các thị trường với tư cách là các doanh nghiệp, doanh nhân cá thể, chưa phải tư cách ngành hàng quốc gia. Do đó, sức cạnh tranh còn thấp.
“Cạnh tranh nước ngoài thì ít, cạnh tranh trong nước thì nhiều. Chính phủ, Quốc hội cần cơ chế nào đó để doanh nghiệp hợp nhất, đồng lòng. Hiệp hội chúng tôi cũng chỉ mang tính khuyến nghị mềm, chưa đủ sức thuyết phục doanh nghiêp, sự hợp tác còn kém”, Phó Chủ tịch VIFOREST kiến nghị.
Ông Hoài cũng cho biết thêm xu hướng khác với ngành gỗ. Cụ thể, bên cạnh xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập, hiện đã có xu hướng tìm các nguồn thân hữu để tránh rủi ro, tạo sức mạnh nội khối. “Với chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc, chúng ta là nhà cung ứng rất lớn sản phẩm gỗ vào Mỹ, nhưng họ đang có xu hướng giảm phụ thuộc vào Việt Nam.
"Chúng tôi khuyến cáo doanh nghiệp cần sự tập hợp hoặc liên kết đối tác châu Âu, Canada, Rumani,… để chế biến ra sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, châu Âu và các nước khác”, ông Hoài đề xuất.
Đồng thời nhấn mạnh vai trò khơi thông nguồn lực của chính các doanh nghiệp" - ông Hoài nói, bởi theo ông Hoài, với ngành gỗ, dù có những khó khăn nhưng các doanh nghiệp với kinh nghiệm 30 năm qua sẽ có cách thức vượt khó khăn.
Ông Mạc Quốc Anh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa thành phố Hà Nội, Viện trưởng Viện Kinh tế và Phát triển Doanh nghiệp thông tin, theo thống kê, hiện nay các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang đối mặt với 5 khó khăn, bao gồm thiếu đơn hàng: 52%; thiếu tiếp cận vốn: 32%, thủ tục hành chính còn rườm rà: 25%; Lo ngại hình sự hóa trong hoạt động kinh tế: 9%; thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học công nghệ: 41%.
Do đó, ông Quốc Anh cho rằng, cần tập trung khơi thông các điểm thiếu sót nêu trên. Cụ thể, đẩy mạnh mở rộng thị trường xuất khẩu để khơi thông các đơn hàng. Khơi thông các nguồn vốn bằng cách giải quyết các vấn đề về trái phiếu, vốn ngân hàng, các nguồn vốn từ các quỹ còn chưa hiệu quả.
Đồng thời rà soát, tháo gỡ các thủ tục hành chính còn rườm rà; có các biện pháp củng cố hơn nữa niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và giới đầu tư tư nhân; Khơi thông nguồn nhân lực chất lượng cao.
Ông Mạc Quốc Anh cho biết thêm, Luật hỗ trợ DNNVV đã được ban hành năm 2018, tuy nhiên các tỉnh thành chưa thực thi một cách hiệu quả. Mặc dù Hà Nội và một số tỉnh thành trực thuộc Trung ương đã hành động nhanh chóng để thực thi Luật này, nhưng vẫn cần có sự vào cuộc của tất cả các tỉnh, thành trên cả nước để doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Bên cạnh đó, ông Quốc Anh đề xuất, Chính phủ cần xây dựng đội ngũ doanh nghiệp lớn, các “sếu đầu đàn” hùng mạnh để có thể tăng cường sức cạnh tranh trên sân chơi toàn cầu; từ đó tạo bệ đỡ hỗ trợ, dẫn dắt các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước tham gia mạnh mẽ hơn vào cuộc chơi toàn cầu.
Ông Quốc Anh cũng cho rằng, VCCI cần tăng cường hơn nữa mối liên kết giữa các Hiệp hội Doanh nghiệp trong nước, liên kết giữa các hội viên các Hiệp hội hợp tác, xây dựng chuỗi giá trị cung ứng trong nước mạnh mẽ.
Ông Nguyễn Lê Phúc, Phó Cục trưởng Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam, đã chia sẻ về những vấn đề cần được giải quyết trong ngành du lịch.Theo ông Phúc, có ba vấn đề lớn nhất trong ngành du lịch gồm: VISA, giá điện và giá vé máy bay. Trong đó, vấn đề về VISA và giá điện đã được giải quyết, nhưng giá vé máy bay vẫn là một thách thức đang phải đối mặt.
Để giải quyết vấn đề này, ông đề xuất phân tích các yếu tố cấu thành giá vé và tìm cách tháo gỡ khó khăn để du lịch Việt Nam có thể cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc tế.
Trả lời cho vấn đề tăng trưởng khách du lịch ngoại quốc, ông Phúc chia sẻ Trung Quốc là hứa hẹn sẽ là một thị trường tiềm năng cho ngành du lịch nước ta trong năm 2024. Thị trường khách của đất nước này tăng trưởng thứ hai trong lượng khách đến đất nước ta trong tháng 03/2024, trong khi đó khách du lịch đến từ Hàn Quốc và Đài Loan trong tháng 03/2024 lại giảm so với tháng 02/2024.
Ông Phúc nhận định, du lịch Việt Nam đã chịu ảnh hưởng rất nhiều từ đại dịch COVID-19, tuy nhiên đất nước ta cũng đã phục hồi rất nhanh. Trong năm 2024, ngành du lịch quyết tâm phục hồi, đặt mục tiêu năm lượng khách đến với Việt Nam sẽ bằng năm 2019 là khoảng 17 đến 18 triệu người. Một tín hiệu đáng mừng là vào quý I năm 2024 kết quả đã vượt qua lượng khách cùng kỳ năm 2019. Đây là một trong những động lực để ngành du lịch cố gắng tháo gỡ những vướng mắc về giá vé để mở ra những cơ hội lớn đất nước ta.
Ngoài ra, ông Phúc cũng bày tỏ Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam đã và đang triển khai nội dung hệ sinh thái du lịch thông minh. Đây là một hệ thống tích hợp dữ liệu phù hợp với du lịch Việt Nam, từ đó đem đến những giá trị tích cực cho cả khách du lịch trong và ngoài nước. Ông Phúc mong muốn các đơn vị sẽ cùng đóng góp, hỗ trợ để hệ sinh thái sớm hoàn thiện.
Chia sẻ tại Diễn đàn, ông Nguyễn Mạnh Thản, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần Ao Vua (huyện Ba Vì) cho rằng, để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển cần có 6 yếu tố:
Thứ nhất là về cơ chế chính sách, đó là các quy định của nhà nước từ luật pháp trở xuống. Hiện tại, những quy định trước và quy định sau còn chồng chéo, thậm trí cản trở nhau. Các chính sách khi đưa vào thực thi còn nhiều vướng mắc.
Ngoài ra, cần có chính sách để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp bởi hiện nay Nhà nước cấp phép cho tất cả dự án cực kỳ khó khăn, nếu cứ theo quy định của luật pháp thì có nhiều dự án 5-7 năm chưa được cấp phép.
Thứ hai là về thị trường. Các nước trên thế giới cũng gặp khó khăn về kinh tế kéo theo khách đi du lịch thấp hơn, tập trung vào nhu cầu thiết yếu nhiều hơn.
Thứ ba là vẫn còn nhiều doanh nghiệp đưa ra thị trường những sản phẩm chất lượng chưa cao.
Thứ tư là sản phẩm của doanh nghiệp hiện không đảm bảo, xuất hiện nhiều hàng nhái, hàng giả, không tạo niềm tin cho người tiêu dùng. Do vậy hàng Việt Nam cần chinh phục người Việt Nam bằng những sản phẩm đa dạng, đặc thù, cá biệt.
Thứ năm là cần có chiến lược quảng cáo một cách tử tế khi đã có sản phẩm. Cuối cùng là việc hợp tác giữa các doanh nghiệp để tạo lợi ích chung cho xã hội.
Phát biểu kết luận Diễn đàn, ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch VCCI cho biết, trước khi Diễn đàn diễn ra, các cơ quan quản lý đã có những hội thảo, tọa đàm về khơi thông nguồn vốn. Tại Diễn đàn hôm nay, Ban tổ chức đã nhận được nhiều tham luận, kiến nghị, đề xuất giải pháp thúc đẩy các động lực tăng trưởng truyền thống và khơi thông các động lực tăng trưởng mới.
Những ý kiến được đưa ra tại Diễn đàn đã đề ra những góc nhìn mới, để đạt được mục tiêu tăng trưởng, ngoài những động lực tăng trưởng mới cần hướng tới cũng cần nhìn lại những động lực tăng trưởng cũ, để từ có nhận diện những thách thức, rủi ro, bất định của kinh tế toàn cầu cũng như trong nước; các cơ hội mở rộng thị trường, cơ hội thương mại, xuất nhập khẩu, đầu tư đối với cộng đồng doanh nghiệp.
“Từ đây đặt ra yêu cầu cải cách thể chế, đẩy nhanh cải cách môi trường kinh doanh, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính, là yêu cầu cấp thiết. Đặc biệt là sớm rà soát, hoàn thiện khung chính sách cho các mô hình kinh tế mới như: kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế ban đêm, kinh tế sáng tạo để tạo không gian kinh tế lớn hơn cho cộng đồng doanh nghiệp. Tập trung tháo gỡ các khó khăn về tiếp cận các thị trường xuất khẩu; hoàn thiện và triển khai hiệu quả khung chính sách cải thiện năng suất lao động… để lấy lại và tạo dựng niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp” – Phó Chủ tịch VCCI nói.
Đồng thời, ông cho biết, sau Diễn đàn này Ban Tổ chức sẽ tổng hợp các ý kiến, kiến nghị của các nhà quản lý, các chuyên gia, doanh nghiệp, nhà đầu tư gửi tới các cơ quan có thẩm quyền để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc góp phần khơi thông động lực tăng trưởng mới tạo nền tảng quan trọng cho hội nhập và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh những vấn đề đặt ra, với vai trò của mình, trong thời gian tới, VCCI sẽ tiếp tục chắt lọc và lắng nghe những ý kiến từ phía các doanh nghiệp về những khó khăn, vướng mắc nhất là trong việc góp ý các chính sách trong thời gian tới đang được các cơ quan soạn thảo.
Có thể bạn quan tâm
Nền tảng từ cắt giảm thủ tục hành chính
15:47, 12/04/2024
ĐỘNG LỰC TĂNG TRƯỞNG MỚI: Khơi thông hiệu quả các FTA
15:31, 12/04/2024
ĐỘNG LỰC TĂNG TRƯỞNG MỚI: Cần tận dụng tốt yếu tố thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế
15:26, 12/04/2024
ĐỘNG LỰC TĂNG TRƯỞNG MỚI: Nguồn lực từ thể chế
15:19, 12/04/2024