Cách nhìn mới trong tiếp cận pháp lý về dữ liệu số

Nhóm tác giả khoa Luật - Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh* 19/05/2024 04:30

Trong kỷ nguyên số, dữ liệu đang trở thành “nguồn tài nguyên mới” và nếu được khai thác và phát huy hợp lý các giá trị, sẽ thúc đẩy sự phát triển của kinh tế số.

>>>STT GDC “bắt tay” VNG xây dựng Trung tâm dữ liệu tại Việt Nam

Vai trò của dữ liệu với kinh tế số

Trong cuộc cách mạng công nghiệp mới, dữ liệu đóng vai trò quan trọng "sống còn" đối với việc phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh, xã hội. Vì dữ liệu là phương tiện chuyên chở thông tin, sự kết hợp một cách đúng đắn các mẩu dữ liệu sẽ kiến tạo nên thông tin có ý nghĩa, bổ sung và làm giàu thêm cho kiến thức của con người.

Trước sự xuất hiện của các mô hình kinh doanh mới dựa trên cung ứng dịch vụ qua mạng, dữ liệu trở thành “nguồn tài nguyên mới”, việc khai thác và phát huy hợp lý giá trị của dữ liệu sẽ thúc đẩy sự phát triển của kinh tế số.

Trước sự xuất hiện của các mô hình kinh doanh mới dựa trên cung ứng dịch vụ qua mạng, dữ liệu trở thành “nguồn tài nguyên mới”, việc khai thác và phát huy hợp lý giá trị của dữ liệu sẽ thúc đẩy sự phát triển của kinh tế số. (Ảnh minh họa: Internet)

Ở góc độ pháp lý, việc sở hữu các quyền pháp lý đối với dữ liệu sẽ mang lại các giá trị vật chất và tinh thần cho những chủ thể nắm quyền. Nếu doanh nghiệp có quyền khai thác đúng đắn và hợp lý khối dữ liệu phát sinh trong chu trình kinh doanh, họ có thể không ngừng tạo ra giá trị mới từ ý nghĩa mà dữ liệu thể hiện trong các bối cảnh kinh doanh cụ thể. Trái lại, đối với cá nhân người dùng, khả năng kiểm soát và bày tỏ ý chí đối với việc sử dụng những dữ liệu về bản thân họ mang lại giá trị cả vật chất và tinh thần cho chính họ.

Vì vậy, khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ xoay quanh quyền sử dụng, khai thác và định đoạt dữ liệu trong kinh tế số phải đạt được mức cân bằng giữa các quyền lợi mang tính tài sản và nhân thân của các chủ thể khác nhau.

>>>Tái định hình tính bảo mật trung tâm dữ liệu và đám mây trong thời đại AI

Thực trạng về khung pháp lý dữ liệu

Hiện nay, khung pháp lý Việt Nam chia dữ liệu ra làm nhiều nhóm dựa trên tính chất của các dữ liệu, cụ thể như sau:

Thứ nhất: nhóm dữ liệu liên quan đến hoạt động kiểm soát và quản lý xã hội của cơ quan nhà nước, bao gồm cả dữ liệu dân cư. Nhóm này có thể bao gồm các dữ liệu thống kê về tình hình kinh tế, xã hội trong và ngoài nước, bí mật quốc gia, dữ liệu hộ tịch, nhân thân của người dân, dữ liệu về tài nguyên quốc gia, v.v. Đối với những dữ liệu này, hiện các quy định pháp luật của Việt Nam đang xác định chủ thể thực hiện quyền trên chúng là Nhà nước. Một số văn bản quy phạm pháp luật tiêu biểu có thể kể đến như Luật lưu trữ, Luật bảo vệ bí mật nhà nước, Luật Căn cước công dân, v.v.

Thứ hai, nhóm dữ liệu mà người dân có thể tự do tiếp cận, chiếm hữu, dụng ích và định đoạt để tạo ra giá trị về mặt kinh tế, xã hội. Vì các loại dữ liệu thuộc khối dân sự này rất đa dạng nên các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đang được xây dựng dựa trên nhiều tiêu chí không thống nhất. Ví dụ, dựa trên nguồn gốc hình thành, Luật Giao dịch điện tử năm 2023 chia dữ liệu thành “dữ liệu”, “dữ liệu số”, “dữ liệu điện tử” và “dữ liệu chủ” (khoản 6, 7, 8, 9 Điều 3 Luật Giao dịch điện tử năm 2023). Mỗi nhóm dữ liệu nêu trên tương ứng với một mức độ điều chỉnh khác nhau trong Luật Giao dịch điện tử. Bên cạnh đó, dựa trên tính chất gắn liền với lợi ích nhân thân, Nghị định số 13/2023/NĐ-CP của Chính phủ ngày 17/4/2023 về bảo vệ dữ liệu cá nhân lại đưa ra tiêu chí để xác định “dữ liệu cá nhân”, phân biệt với những dữ liệu không phải là “dữ liệu cá nhân”, và điều chỉnh bằng nhiều quy định kiểm soát và hành chính.

Như vậy, phần lớn quy định pháp luật hiện nay ở Việt Nam được xây dựng dựa trên bản chất của thông tin mà các dữ liệu phản ánh. Tuy nhiên, trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay, dữ liệu thường tồn tại thành các khối lớn, đặt dưới sự xử lý của những thuật toán chuyên sâu và phức tạp. Việc phân biệt các loại dữ liệu khác nhau là không dễ dàng. Đôi khi, một số loại dữ liệu nhất định có thể là đối tượng của nhiều nhóm quan hệ pháp luật cùng lúc.

Khung pháp lý dựa trên bản chất thông tin sẽ đặt ra nhiều trở ngại hơn cho nhà kinh doanh trong việc xác định bản chất của từng loại dữ liệu trong một tập dữ liệu lớn, đẩy chi phí vận hành lên cao.

Tiếp cận chức năng dữ liệu

Nếu thay đổi góc nhìn và xem xét dữ liệu từ những chức năng mà chúng đảm nhiệm trong kinh tế-xã hội số, thì hiện nay dữ liệu đang đảm nhiệm ba nhóm chức năng kinh tế-xã hội như sau:

Dữ liệu - cơ sở dân cơ quốc gia mang đến điều kiện quản lý và triển khai cơ chế dịch vụ công 1 cửa

Dữ liệu - cơ sở dân cơ quốc gia mang đến điều kiện quản lý và triển khai cơ chế dịch vụ công 1 cửa, cải thiện và giảm thiểu thủ tục hành chính, tăng minh bạch và tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Chức năng phục vụ quản lý nhà nước: Để phát huy hiệu quả chức năng quản lý hành chính nhà nước, cơ quan quản lý có nhu cầu thu thập, lưu trữ và xử lý thông tin liên quan đến đời sống kinh tế và xã hội của dân cư.

Chức năng kinh tế: Trong hoạt động kinh doanh, việc nắm bắt được các dữ liệu báo hiệu tín hiệu của thị trường cũng như xu hướng và thị hiếu của người tiêu dùng sẽ mang lại nhiều lợi thế hơn cho doanh nghiệp.

Chức năng nhân thân: Dữ liệu phản ánh nội dung thông tin liên quan đến nhân thân, lý lịch hộ tịch và đời sống riêng tư của cá nhân, giúp nhận diện một cá nhân cụ thể trong các mối quan hệ xã hội với người khác, là cơ sở để xác định địa vị pháp lí của cá nhân và giới hạn xử sự của họ trong các quan hệ pháp luật.

Trên cơ sở ba nhóm chức năng vừa liệt kê, có thể nhận diện ba nhóm quan hệ mà pháp luật cần tập trung điều chỉnh, đó là:

Quan hệ giữa nhà nước và công dân trong việc thu thập, kiểm soát, sử dụng dữ liệu;

Quan hệ giữa các tổ chức, cá nhân liên quan đến việc khai thác giá trị kinh tế của dữ liệu trong công nghiệp;

Quan hệ giữa các tổ chức, cá nhân liên quan đến việc kiểm soát, xử lý dữ liệu liên quan đến nhân thân của cá nhân.

Đối với nhóm quan hệ thứ nhất, việc nắm bắt và kiểm soát bằng pháp luật đối với chu trình thu thập, lưu trữ, chu chuyển thông tin kinh tế, xã hội là cách thức để nhà nước quản lý trật tự xã hội. Vì lí do này, cơ quan công quyền luôn có xu hướng thu thập và xử lý khối dữ liệu lớn về cư dân và bằng các quy định mang tính chất hành chính. Do đó, pháp luật điều chỉnh nhóm thứ nhất thường sẽ đi theo logic của pháp luật hành chính.

Tuy nhiên, đối với nhóm quan hệ thứ hai và thứ ba, dữ liệu phát huy chức năng của mình trong các mối quan hệ dân sự - kinh tế phát sinh trong thị trường và xã hội. Tổ chức, cá nhân chủ động thỏa thuận, giao dữ liệu cho nhau trong nhiều khung cảnh khác nhau mà không nhất thiết có sự kiểm soát của nhà nước. Vì vậy, các quy định pháp luật điều chỉnh hai nhóm này sẽ là quy định mang tính chất dân sự - thương mại, các bên được quyền tự do thỏa thuận với nhau miễn sao đảm bảo đúng các nguyên tắc chung của luật pháp. Nhà nước chỉ can thiệp điều chỉnh nếu có sự bất bình đẳng hoặc khi xâm phạm lợi ích công cộng cũng như các quy tắc chung nhằm bảo đảm sự an toàn của xã hội và an ninh quốc gia.  

Tiếp cận chức năng được hiểu là khi xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với dữ liệu, người ta chuyển sự tập trung từ bản chất của dữ liệu sang việc xác định hành vi xử sự của các bên đối với dữ liệu, từ đó áp dụng logic điều chỉnh tương ứng. Hành vi xử sự nói trên phải gắn liền với bối cảnh mà tại đó dữ liệu mang lại lợi ích (cả vật chất lẫn tinh thần) cho chủ thể có quyền.

Như vậy, trong mô hình tiếp cận chức năng, nhà làm luật cần thay đổi tiêu điểm, lấy các nhóm quan hệ phát sinh dựa trên chức năng của dữ liệu làm đối tượng điều chỉnh. Khi xác định được nhóm quan hệ, nhà làm luật chỉ cần mở rộng hoặc áp dụng tương tự các logic của nhóm quan hệ đó đối với những dạng xử lý dữ liệu mới, chứ không cần “chạy theo” việc phân loại từng loại dữ liệu trong thị trường hoặc xã hội để trao thêm quyền hoặc áp đặt thêm nghĩa vụ dựa trên từng loại dữ liệu đó.

Thông tin từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, năm 2023, ứng dụng dữ liệu quốc gia về dân cư, ngành Ngân hàng không ngừng thúc đẩy chuyển đổi số, sự phối hợp của Bộ Công an với NHNN bằng các nhiệm vụ trọng tâm đã làm sạch 49 triệu dữ liệu của Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam, 3,5 triệu dữ liệu của các tổ chức tín dụng, trung gian thanh toán, ví điện tử và đang tiếp tục phối hợp chặt chẽ để triển khai làm sạch với số dữ liệu còn lại. Đồng thời, phối hợp triển khai xác minh những tài khoản nghi ngờ giả mạo phục vụ công tác quản lý nhà nước, phòng chống rửa tiền, phòng chống tội phạm, xây dựng lòng tin của người dân. Đến nay, đã có 48 tổ chức tín dụng (TCTD) đã và đang triển khai ứng dụng xác thực khách hàng bằng thẻ CCCD gắn chíp qua ứng dụng điện thoại; 60 TCTD đã và đang triển khai ứng dụng xác thực khách hàng bằng thẻ CCCD gắn chíp qua thiết bị tại quầy...

Mặc dù đây mới chỉ là bước đầu và còn nhiều khó khăn trong đẩy nhanh tiến độ kết nối cơ sở dữ liệu chuyên ngành với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư giữa các bộ, ngành để thực hiện định danh và xác thực điện tử; nhất quán trong việc đăng ký kinh doanh mới, rà soát, chuẩn hóa dữ liệu người nộp thuế hiện hành; đồng bộ dữ liệu dân cư với các dữ liệu khác..., theo Bộ Công an, nhưng đây là một trong những minh chứng cho thấy bước tiến của tiếp cận chức năng dữ liệu để quản lý và nhân rộng ra các mô hình kinh doanh mang đến hiệu quả - (P.V)

*Nhóm tác giả: ThS. Huỳnh Thiên Tứ, ThS. Lê Thùy Khanh, Khoa Luật - Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

Có thể bạn quan tâm

  • "Đo ni đóng giày" giải pháp bảo mật dữ liệu cho doanh nghiệp

    18:35, 24/04/2024

  • Alibaba “đốt nóng” thêm thị trường trung tâm dữ liệu Việt

    Alibaba “đốt nóng” thêm thị trường trung tâm dữ liệu Việt

    02:00, 03/05/2024

  • Châu Á đối mặt bài toán năng lượng khi phát triển trung tâm dữ liệu

    Châu Á đối mặt bài toán năng lượng khi phát triển trung tâm dữ liệu

    03:00, 05/05/2024

Nhóm tác giả khoa Luật - Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh*