Xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý để đánh thuế tài sản số
Theo các chuyên gia, trong trường hợp tài sản số được đưa vào Luật Công nghiệp công nghệ số, hay nói cách khác chúng ta thừa nhận tài sản số như một loại tài sản thì hoàn toàn có căn cứ để thực hiện thu thuế dựa trên pháp luật thuế hiện nay.
Tại dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số do Bộ Thông tin và Truyền thông xây dựng theo chỉ đạo của Chính phủ, lần đầu tiên, tài sản số được định nghĩa tại Điều 8 của dự thảo luật. Theo đó, dự thảo luật khẳng định: "Tài sản số là sản phẩm công nghệ số được tạo ra, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực quyền sở hữu bằng công nghệ chuỗi khối mà con người có quyền sở hữu theo quy định của pháp luật về dân sự và pháp luật có liên quan".
Tới đây, khi quy định của Luật Công nghiệp công nghệ số ban hành, tài sản số chính thức được pháp luật quy định, cũng đặt ra các yêu cầu quan trọng trong việc hoàn thiện các hành lang pháp lý đầy đủ đi cùng với các quy định về quyền sở hữu, nghĩa vụ thuế của các cá nhân, tổ chức hoạt động trong ngành.
Tài sản số - Xu hướng tất yếu trong thời gian tới
Trao đổi tại Tọa đàm "Chính sách thuế - tài sản số và trách nhiệm của doanh nghiệp", Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Blockchain Việt Nam Phan Đức Trung khẳng định tài sản số đang rất phát triển và là xu hướng tất yếu thời gian tới. Điển hình là báo cáo của tổ chức Chainalysis chuyên về phân tích thị trường, năm 2022, dòng tài sản số hay là tài sản mã hóa vào thị trường Việt Nam khoảng 100 tỷ USD. Con số này tăng trưởng đến năm 2023 là 120 tỷ USD. Năm 2021-2022, Việt Nam luôn nằm trong top 3 trên toàn cầu về người dân sở hữu tài sản số, chỉ sau UAE và Hoa Kỳ. Năm 2023, Singapore đã vươn lên đứng thứ 3, Thái Lan đứng thứ 5 và Việt Nam đứng thứ 7.
Đồng quan điểm, Phó Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí (Bộ Tài chính) Trương Bá Tuấn cũng nhận định, với sự phát triển của công nghệ, tài sản số đang phát triển rất mạnh trên thế giới.
Trong khi đó, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI Đậu Anh Tuấn cho rằng, mặc dù tài sản số trên thực tiễn đã rất phát triển nhưng về mặt pháp lý dường như nước ta chưa theo kịp, chưa có một khung khổ pháp lý cho loại tài sản này.
"Chính vì chưa có khung khổ pháp lý chính thức nên thời gian vừa qua, có những hoạt động đầu tư kinh doanh buộc phải rời bỏ Việt Nam. Ví dụ như Tập đoàn Sky Mavis, một tập đoàn kỳ lân công nghệ của Việt Nam có hệ sinh thái game, là doanh nghiệp thuần Việt Nam nhưng do chúng ta chưa có khung khổ pháp lý cho tài sản trong game và hoạt động dựa trên cơ sở nội dung số, tài sản số rất lớn, nên cuối cùng họ chọn Singapore làm nơi đóng trụ sở", ông Đậu Anh Tuấn dẫn chứng.
Nhìn nhận về vai trò của tài sản số, ông Phan Đức Trung cho rằng, tài sản số không chỉ là những con số mang tính chất quy mô về dòng tiền dịch chuyển về Việt Nam, mà còn có quy mô cạnh tranh khu vực.
Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI thì kỳ vọng với sự phát triển khoa học công nghệ mạnh mẽ như hiện tại, Việt Nam cần phải là điểm đến của các nhà đầu tư công nghệ số.
Cần xây dựng pháp luật, chính sách đồng bộ
Theo Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI Đậu Anh Tuấn, cần từng bước xây dựng khung khổ pháp lý cho tài sản số. Bởi chỉ khi có pháp lý, công nghiệp công nghệ số mới dần được hình thành, phát triển mạnh mẽ, quyền và lợi ích của những người tham gia trong lĩnh vực này được bảo vệ.
“Chúng tôi cho rằng, nhu cầu có khung khổ pháp lý cho tài sản số, cho các giao dịch liên quan tới tài sản số là điều Việt Nam cần cân nhắc và nhanh chóng thúc đẩy”, ông Đậu Anh Tuấn nói thêm.
Đồng quan điểm, Phó Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí cũng cho rằng cần thiết phải có khung pháp lý liên quan đến tài sản số bởi hiện tại, dù chưa có hành lang pháp lý liên quan đến tài sản số nhưng các giao dịch về tài sản số vẫn diễn ra thông qua sàn giao dịch nước ngoài và cá nhân.
"Phải xác định và làm rõ được định nghĩa tài sản số là gì cũng như vị trí pháp lý của tài sản số và những đặc trưng, đặc tính của tài sản số. Như vậy, các cơ quan quản lý nhà nước liên quan mới có các biện pháp, chính sách để hình thành khung pháp lý đồng bộ", ông Trương Bá Tuấn phân tích.
Nếu thừa nhận và quản lý tài sản số như tài sản thì đòi hỏi không chỉ sự tham gia của Bộ Tài chính mà của rất nhiều bộ, ngành có liên quan.
Đại diện Bộ Tài chính cũng khẳng định, trường hợp dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số được Quốc hội thông qua, trong phạm vi và chức năng của mình, Bộ Tài chính sẽ triển khai thực hiện các vấn đề liên quan, bao gồm cả hoàn thiện chính sách về thuế.
Ông Tuấn cũng đề xuất cần có khái niệm 'tài sản số' thống nhất để phân loại đúng, vì mỗi tài sản số có thể phục vụ cho mục tiêu khác nhau, từ đó mới có căn cứ thực hiện việc thu thuế. Bên cạnh đó, cùng cần hoàn thiện các pháp luật có liên quan để bao quát được các hoạt động liên quan đến tài sản số.
Dưới góc độ doanh nghiệp, ông Trần Huyền Dinh, CEO Công ty AlphaTrue nhận định: Trong thời gian qua, DN đã nhận được khá nhiều sự quan tâm từ Chính phủ, thông qua các chính sách thúc đẩy chuyển đổi số cũng như phát triển kinh tế số, đơn cử Quyết định 194/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nhằm giúp Việt Nam ra khỏi danh sách xám, dự thảo Nghị định cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Sandbox cho ngành Fintech tại Việt Nam và đặc biệt là dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn đáng kể trong lĩnh vực tài sản số. Theo ông Dinh, hiện nay, hành lang pháp lý về tài sản số chưa được hoàn thiện, cho nên dẫn đến tình trạng thiếu rõ ràng trong việc xác lập quyền sở hữu và trách nhiệm thuế của doanh nghiệp. Rất nhiều trường hợp doanh nghiệp để phát triển dễ dàng hơn buộc phải qua các địa bàn lân cận như Singapore, Hong Kong. Điều này không chỉ tạo ra thách thức cho doanh nghiệp trong việc tuân thủ pháp luật mà còn gây khó khăn trong việc thu hút vốn, đặc biệt vốn đầu tư nước ngoài.
Đối với dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số và các luật liên quan đến tài sản số sắp tới, đại diện AlphaTrue kỳ vọng các quy định này sẽ mang lại sự minh bạch, cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong lĩnh vực này, đồng thời hạn chế sự chảy máu chất xám, cũng như thu hút nhiều dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam. DN mong muốn thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình cho các doanh nghiệp thử nghiệm cũng như ứng dụng công nghệ mới, có sự kiểm soát nhất định.
“Chúng tôi tin tưởng rằng khi các quy định về tài sản số được luật hóa cụ thể, minh bạch hơn thì doanh nghiệp sẽ có thêm động lực, niềm tin để tiếp tục đầu tư, phát triển, góp phần vào sự phát triển của ngành công nghiệp số tại Việt Nam”, ông Trần Huyền Dinh bày tỏ.
Ông Đậu Anh Tuấn cũng bày tỏ kỳ vọng, bên cạnh Luật Công nghiệp công nghệ số, cần có chiến lược lớn hơn, bài bản hơn, quy định rõ hơn về việc xây dựng chính sách đồng bộ, nhất quán để hiệu ứng tốt hơn. Do đó, phải có chính sách phối hợp như chính sách về phòng chống rửa tiền, chính sách về ngân hàng, chính sách về an ninh, chính sách về bảo mật. Những chính sách này phải đồng bộ bên cạnh chính sách về thu thuế.
Theo ông Đậu Anh Tuấn, sự bài bản về chiến lược còn là phân công trách nhiệm, nghĩa vụ… các bộ, ban, ngành cần phải làm chứ không riêng Bộ Tài chính.