TKV: 30 năm vươn mình thành Tập đoàn kinh tế Nhà nước lớn mạnh
Từ nền tảng là một Tổng công ty Nhà nước, qua 30 năm xây dựng và phát triển, TKV đã trở thành Tập đoàn kinh tế Nhà nước lớn mạnh.
Khơi nguồn suối than...
Trong chặng đường hình thành, xây dựng và phát triển 30 năm qua, TVN trước đây và TKV sau này, TKV luôn phát triển sản xuất kinh doanh than là ngành chủ lực, chiến lược của Tập đoàn theo hướng tăng trưởng nhanh, đáp ứng nhu cầu than trong nước ngày càng tăng cao, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế - xã hội, khẳng định vị thế một trong 3 trụ cột năng lượng quốc gia (Điện – Than – Dầu khí).
Từ năm 1995 sau khi TVN đi vào hoạt động, sản lượng than đã ngày càng tăng cao không những đáp ứng đủ nhu cầu trong nước mà còn có xuất khẩu thu ngoại tệ vừa góp phần cải thiện cán cân thương mại, góp phần thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo tích lũy đầu tư phát triển mở rộng sản xuất than và phát triển các ngành khác trên nền sản xuất than. Sản lượng than đã đạt các mốc như sau:
- Năm 1997 đạt 11,3 triệu tấn, đánh dấu lần đầu tiên ngành than Việt Nam vượt mốc 10 triệu tấn là mức sản lượng Đại hội Đảng lần thứ VIII đề ra cho năm 2000.
- Năm 2002 đạt 15,4 triệu tấn, vượt mốc 15 triệu tấn và đạt mục tiêu sản lượng mà Quy hoạch phát triển ngành than đề ra cho năm 2005.
- Năm 2004 đạt 25,4 triệu tấn, đạt mục tiêu sản lượng mà Quy hoạch phát triển ngành than đề ra cho năm 2015.
- Năm 2005 đạt 31,3 triệu tấn, vượt xa mục tiêu sản lượng mà Quy hoạch phát triển ngành than đề ra cho năm 2020.
- Năm 2007 đạt 42,2 triệu tấn, vượt mốc 40 triệu tấn. Và từ đó đến nay sản lượng than đều đạt 38 đến 40 triệu tấn/năm, năm 2011 đạt mức cao nhất là 45 triệu tấn.
Tổng doanh thu than đã tăng từ gần 1,3 ngàn tỉ đồng năm 1994 lên 175 ngàn tỉ đồng năm 2024 (tăng gần 135 lần).
Đặc biệt, lĩnh vực khai thác than hầm lò đã có sự phát triển mạnh mẽ trên cơ sở không ngừng đổi mới và hiện đại hóa công nghệ, từ chỗ chủ yếu là khai thác thủ công, chống gỗ đã từng bước nâng cao trình độ cơ giới hóa và tiến tới cơ giới hóa đồng bộ với các trang thiết bị tiên tiến, hiện đại. Nhờ đó đã tăng sản lượng than hầm lò từ 1,8 triệu tấn năm 1994 (chiếm 25% tổng sản lượng than) lên 27 triệu tấn năm 2024 (chiếm 73 % tổng sản lượng than) và tăng 15 lần; công suất lò chợ đã tăng từ 20-50 ngàn tấn/năm lên bình quân 200 ngàn tấn/năm, lò chợ cơ giới hóa đồng bộ tại Công ty Than Hà Lầm đạt công suất 1,2 triệu tấn/năm (gấp 60 lần công suất lò chợ giai đoạn 1994); hệ số tổn thất than giảm từ mức 40-50% xuống còn 19,02 %. Có thể nói lĩnh vực khai thác than hầm lò đã trưởng thành và đảm đương vai trò chính trong việc khai thác than theo hướng thân thiện với môi trường.
Nâng cao giá trị gia tăng khoáng sản
Từ chỗ trước đây chủ yếu khai thác và sản xuất quặng tinh, phần lớn để xuất khẩu, TKV đã đẩy mạnh đầu tư chế biến sâu khoáng sản, luyện kim như nhà máy luyện đồng (Lào Cai) để sản xuất đồng kim loại công suất 10.000 tấn/năm (đi vào hoạt động năm 2008) đến nay đã đầu tư mở rộng nâng lên 30.000 tấn/năm; nhà máy kẽm điện phân (Thái Nguyên) công suất 10.000 tấn/năm (đi vào hoạt động năm 2007); nhà máy alumin Tân Rai (Lâm Đồng) công suất 650 ngàn tấn/năm (đi vào hoạt động năm 2013), Nhà máy alumin Nhân Cơ (Đắc Nông) công suất 650 ngàn tấn/năm (đi vào hoạt động năm 2017). Hai nhà máy này hàng năm đạt sản lượng 1,45 triệu tấn Alumin quy đổi vượt 10 % công suất thiết kế mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Tổng doanh thu khoáng sản đã tăng từ 1,32 ngàn tỉ đồng năm 2006 lên hơn 24,8 ngàn tỷ đồng năm 2023 (tăng 18,78 lần).
Việc đưa các nhà máy luyện kim và 2 nhà máy chế biến alumin nêu trên đi vào hoạt động đã tạo ra sự phát triển đột phá về chất của của ngành công nghiệp khoáng sản Việt Nam theo hướng chế biến sâu đáp ứng nhu cầu trong nước, giảm nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ, vừa nâng cao giá trị gia tăng và tạo thêm việc làm, góp phần cải thiện cán cân thương mại, ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế - xã hội, tại địa bàn Tây Bắc và Tây Nguyên.
Sản lượng kẽm thỏi đã tăng từ gần 2,5 ngàn tấn năm 2006 lên trên 12 ngàn tấn vào năm 2023; sản lượng đồng tấm tăng từ 2,5 ngàn tấn năm 2008 lên trên 30 ngàn tấn vào năm 2023, vàng kim loại tăng từ 55 kg năm 2008 lên trên 1.100 kg năm 2023...
Phát triển các ngành sản xuất điện, vật liệu nổ công nghiệp, cơ khí...
Với mục tiêu vừa đảm bảo có hiệu quả, vừa nâng cao tính tự chủ, ổn định và bền vững cho ngành chủ lực sản xuất than – khoáng sản của Tập đoàn,
Được giao vai trò là một trong 3 trụ cột đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, nhờ việc đẩy mạnh đầu tư phát triển các dự án điện nên đến năm 2017 tổng công suất của các nhà máy điện TKV đã đi vào hoạt động là 1,73 ngàn MW.
Sản lượng điện sản xuất và tiêu thụ đã tăng từ 720 triệu kWh năm 2006 lên trên 10 tỷ kWh năm 2023 (tăng 13,9 lần), doanh thu tăng từ 432 tỷ đồng lên 14 ngàn tỷ đồng (tăng 32 lần).
Sản xuất và cung ứng Vật liệu nổ công nghiệp liên tục tăng và trở thành một trong những ngành có doanh thu tương đối lớn và hiệu quả cao. Từ năm 2006 đến 2023 sản lượng sản xuất tăng từ 46 lên 65,6 ngàn tấn (tăng gần 1,5 lần) và sản lượng cung ứng tăng từ gần 76 lên 102 ngàn tấn (tăng 1,3 lần), tương ứng doanh thu tăng từ 1,2 lên hơn 7,4 ngàn tỷ đồng (tăng hơn 6 lần).
Về ngành cơ khí: Đã chế tạo giá chống thuỷ lực và các thiết bị, phụ tùng phục vụ sản xuất than, khoáng sản, điện lực, sửa chữa và phục hồi các thiết bị phục vụ cho khai thác mỏ và các lĩnh vực SXKD khác với tổng doanh thu tăng từ hơn 1 ngàn tỉ đồng năm 2006 lên 3,3 ngàn tỉ đồng năm 2023 (tăng hơn 3 lần).
Sản lượng các sản phẩm khác như xi măng, dầu nhờn, các dịch vụ thương mại, du lịch ... đều tăng trưởng và tổng doanh thu đã tăng từ 5,89 ngàn tỉ đồng năm 2006 lên hơn 17 ngàn tỉ đồng năm 2023 (tăng 1,7 lần).
* TKV nộp ngân sách nhà nước năm 1995 đạt 120 tỷ đồng, năm 2023 đạt 29.000 tỷ đồng;
* Tiền lương bình quân TKV hiện nay đạt trên 17 triệu đồng/người-tháng, trong đó thợ lò đạt trên 21 triệu đồng/người-tháng.
Trách nhiệm xã hội
TKV cùng các đơn vị thành viên luôn tích cực tham gia thực hiện các hoạt động xóa đói giảm nghèo, phát triển nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội biển đảo, đền ơn đáp nghĩa, bảo trợ trẻ em, người tàn tật, công tác từ thiện ... với tổng kinh phí đóng góp từ năm hàng ngàn tỷ đồng.
Tiêu biểu như: hỗ trợ 3 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ ngày 27/12/2008 là 241 tỷ đồng; đưa điện lưới ra đảo Cô Tô (Quảng Ninh) với kinh phí trên 163 tỷ đồng và đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) 150 tỷ đồng; tại Tỉnh Lâm Đồng TKV đã hỗ trợ 320 tỷ để cải tạo Tỉnh lộ 725 khi xây dựng dự án Alumin Tân Rai. Tại Tỉnh Đắc Nông hỗ trợ 180 tỷ đồng cho Tỉnh để xóa nhà dột nát; hỗ trợ Xây dựng Bệnh viện Phổi Quảng Ninh trị giá 245 tỷ đồng; Xây dựng Quảng trường thành phố Cẩm Phả 94 tỷ đồng. Trong đại dịch Covid-19 TKV đã chi trực tiếp từ Công ty mẹ TKV để hỗ trợ Trung ương và các địa phương công tác phòng chống dịch bệnh với số tiền 289 tỷ đồng bao gồm hỗ trợ mua vắc xin, thuốc và trang thiết bị dụng cụ y tế các loại.
Bảo vệ môi trường
Với việc chủ động hoạch định chiến lược bảo vệ môi trường ngay từ khi thành lập, hàng năm Tập đoàn, các công ty TKV đã chi hàng ngàn tỷ đồng để giải quyết dứt điểm tình trạng ô nhiễm môi trường do quá khứ để lại và ngăn ngừa ô nhiễm mới phát sinh. Vì vậy môi trường cảnh quan các khu vực có hoạt động sản xuất kinh doanh của TKV “luôn đảm bảo thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu” tiến dần tới mục tiêu “Xanh hóa môi trường khai thác mỏ” và tiến trình “Đưa công viên vào trong Mỏ, Nhà máy”. Kết quả 30 năm thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường, và an toàn lao động của TKV cụ thể như sau:
Hoàn thành nhiều dự án cải tạo, phục hồi môi trường; nạo vét, xây kè hệ thống sông suối thoát nước, hồ chứa nước; xây đập chắn đất đá ở chân bãi thải; cải tạo, xây dựng các tuyến đường vận tải chuyên dụng; xây dựng hệ thống xử lý nước thải, dập bụi, thu gom, tái chế chất thải... Trồng cây phủ xanh cải tạo các khu vực sau khai thác mỏ phục hồi môi trường sinh thái: trên 21.000 ha, hàng năm xử lý nước thải mỏ 140 -150 triệu m3 đảm đảo tiêu chuẩn xả thải ra môi trường, xây dựng các trạm quan trắc môi trường tự động kết nối trực tiếp và truyền dữ liệu liên tục về Sở Tài nguyên và Môi trường địa phương.
TKV đã hoàn thành thực hiện “Đề án đảm bảo môi trường cấp bách ngành than giai đoạn 2016 - 2020” đảm bảo cam kết với tỉnh Quảng Ninh để giải quyết các nguy cơ, thách thức về môi trường, phòng chống thiên tai xuất hiện sau đợt mưa lũ lịch sử năm 2015, đảm bảo an toàn cho sản xuất và dân cư, bảo vệ môi trường chung, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Chăm sóc sức khỏe người lao động
Ngoài các hoạt động khác theo quy định của pháp luật và quy phạm an toàn, TKV Giao Bệnh Viện Than Khoáng sản đặc trách công tác chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh nghề nghiệp, rửa phổi cho người lao động; Trung tâm cấp cứu mỏ và Trung tâm An toàn Mỏ đặc trách công tác ATLĐ.
Nhờ những giải pháp quyết liệt đã được thực hiện nên tình hình môi trường vùng mỏ, an toàn và sức khỏe người lao động từng bước cải thiện đáng kể, trên cơ sở đó các hoạt động SXKD của Tập đoàn đang phát triển theo hướng an toàn, thân thiện với môi trường, tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu và bền vững.
Đổi mới mô hình tăng trưởng
Định hướng chung về phát triển kinh doanh gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng trong giai đoạn tới của TKV được xác định là: “Thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững trên cơ sở đi đôi với phát triển theo chiều rộng tăng cường phát triển theo chiều sâu bằng cách áp dụng công nghệ mới tiên tiến, hiện đại và đẩy mạnh chế biến sâu tạo ra các chuỗi sản phẩm và chuỗi giá trị trên nền sản xuất than – khoáng sản nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, có giá trị gia tăng cao và hiệu quả”.
TKV đặt mục tiêu đến năm 2030, sản lượng than thương phẩm của TKV từ 35 đến 40 triệu tấn; Nhập khẩu than: 15 đến 20 triệu tấn; Tổng doanh thu: 8 tỷ USD...
Lãnh đạo TKV khẳng định, bài học kinh nghiệm 30 năm qua cho thấy, để vượt qua những khó khăn, thách thức trong giai đoạn tới nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra, TKV phải đổi mới tư duy kinh doanh theo hướng “Tiếp tục phát huy truyền thống “kỷ luật và đồng tâm”, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị trong Tập đoàn, tuân thủ phương châm phát triển hài hòa với cộng đồng và xã hội.
Trên cơ sở đi đôi với phát huy tối đa các nguồn nội lực sẵn có trong Tập đoàn cần khai thác các nguồn lực ngoài xã hội để đầu tư phát triển, có phân công trách nhiệm rõ ràng và sự phối hợp chặt chẽ vì mục tiêu cùng có lợi.
Trên tinh thần đó Tập đoàn và các đơn vị thành viên đặc biệt quan tâm tập trung chỉ đạo quyết liệt thực hiện các giải pháp lớn sau đây:
Một là, tập trung cao độ cho công tác quản trị tài nguyên theo đúng vai trò “Tài nguyên khoáng sản là nguồn lực nền tảng cho hoạt động kinh doanh của Tập đoàn” và là một trong 2 nguồn lực để Tập đoàn đi lên giàu mạnh.
Hai là, tăng cường công tác quản trị đầu tư trên cơ sở nâng cao chất lượng lập và quản lý dự án. Thực hiện huy động tối đa mọi nguồn lực xã hội một cách hợp lý để đáp ứng được nhu cầu vốn đầu tư tăng cao trong khi nguồn vốn chủ sở hữu hạn hẹp.
Ba là, tăng cường các mặt công tác quản trị, đặc biệt là quản trị chi phí, quản trị rủi ro và quản trị kết quả kinh doanh nhằm thực hiện triệt để tiết giảm chi phí và nâng cao hiệu quả trên cơ sở quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm vật tư, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, nguồn than và giao nhận, vận chuyển, tiêu thụ than.
Bốn là, đi đôi với cải thiện điều kiện làm việc phải tăng cường hơn nữa, quyết liệt hơn nữa công tác an toàn lao động theo hướng đảm bảo thực sự khắc phục được một cách triệt để các rủi ro, nguy cơ, nguyên nhân nhằm giảm thiểu tai nạn lao động một cách vững chắc. Phương châm lâu dài là kiên trì thực hiện mục tiêu “Tai nạn bằng không”. Chỉ có như vậy mới có thể góp phần giữ chân và thu hút công nhân hầm lò.
Năm là, tăng cường thực hiện đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ cơ giới hóa, nhất là cơ giới hóa đồng bộ trong khai thác than hầm lò một cách hiệu quả hơn, chủ động hơn trên tình thần đổi mới tư duy, đổi mới cách làm theo hướng thay vì chủ yếu dựa vào nhập khẩu thiết bị chuyển sang tự chủ sản xuất, chế tạo thiết bị trên cơ sở hợp tác chặt chẽ với các đối tác trong nước thông qua phương thức xã hội hóa đầu tư và các đối tác nước ngoài thực sự có tiềm lực theo phương thức cùng hợp tác đầu tư khai thác và chế tạo thiết bị tại Việt Nam.
Sáu là, cùng với các dự án khai thác chế - biến sâu khoáng sản tại các địa phương, xây dựng đội ngũ CBCN Tập đoàn trong thời kỳ đổi mới có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành vơi sự nghiệp, biết tiếp thu những tiến bộ KHKT trên thế giới.
Bảy là, đẩy mạnh công tác bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác chế biến than, khoáng sản, trong đó trọng tâm là nghiên cứu đầu tư tái chế chất thải công nghiệp, tận thu tối đa các khoáng sản đi kèm, đặc biệt là bùn đỏ của các nhà máy chế biến Alumina, đuôi tuyển của nhà máy tuyển đồng Sin Quyền - Lào Cai, khai thác đất đá thải làm vật liệu san lấp và vật liệu xây dựng, tái chế nước thải mỏ thành nước phục vụ sản xuất sinh hoạt...
Tám là, đẩy mạnh hợp tác về mọi mặt với nước ngoài, trong đó đặc biệt tăng cường hợp tác đổi mới, hiện đại hóa công nghệ, đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nhập khẩu than và hợp tác đầu tư khai thác than, khoáng sản ở nước ngoài.
Sau 30 năm thành lập, sự tăng trưởng vượt bậc quy mô của TKV về cả chiều rộng và chiều sâu trong sản xuất kinh doanh đã khẳng định, chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc thành lập Tổng công ty 91 trước đây và Tập đoàn kinh tế hiện nay là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với xu thế của thời đại!