Đường sắt tốc độ cao: Nếu 70 tỷ USD được triển khai, sẽ làm tăng 0,97 điểm % GDP
Nếu 70 tỷ USD được đưa vào triển khai từ nay đến năm 2035, thì tác động của đầu tư đường sắt tốc độ cao sẽ làm tăng khoảng 0,97 điểm % GDP.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương nhấn mạnh tại cuộc Toạ đàm "Đường sắt tốc độ cao – Thời cơ và thách thức" do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức, chiều 29/10.
Đủ cơ sở để triển khai
Trao đổi dưới góc độ phát triển kinh tế xã hội của dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam, theo Thứ trưởng Trần Quốc Phương vào thời điểm này chúng ta đã có đầy đủ cơ sở để triển khai.
Thứ nhất, mong muốn của người dân cũng như sự quyết tâm của hệ thống chính trị đã thể hiện Việt Nam mong muốn có tuyến đường sắt tốc độ cao tiêu chuẩn quốc tế.
“Chúng ta đã có tuyến đường sắt cũ, nhưng tuyến đường sắt này đáp ứng tiêu chuẩn cao hơn và khả năng kết nối tốt hơn so với đường sắt đang sử dụng”, Thứ trưởng Trần Quốc Phương nói.
Thứ hai, có đầy đủ cơ sở chính trị và thực tiễn. Về cơ sở chính trị, chúng ta đã có các nghị quyết, kết luận của Trung ương và Bộ Chính trị từ việc xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao từ nay đến năm 2035.
Về cơ sở thực tiễn, trong bảng quy hoạch tổng thể quốc gia cũng đã đặt vấn đề hoàn thiện kết cấu hạ tầng, trong đó có tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam.
“Đây là sự cần thiết để có bước đột phá về hạ tầng, tạo tác động tích cực và lan tỏa đến tăng trưởng kinh tế cũng như bảo đảm an sinh xã hội”, Thứ trưởng Trần Quốc Phương bày tỏ.
Thứ trưởng Trần Quốc Phương khẳng định, chi tiêu cho đầu tư cũng là một động lực tác động đến tăng trưởng kinh tế. Trong lịch sử đầu tư công của đất nước ta, đây là dự án có quy mô lớn nhất từ trước đến nay, dự kiến tổng chi xấp xỉ 70 tỷ USD.
Đây là con số khái toán ở mức tiền khả thi, rất lớn. Mức chi đầu tư này sẽ tác động đến tăng trưởng kinh tế trong suốt thời gian dự án thi công.
“Qua đánh giá sơ bộ, nếu như số tiền này được đưa vào triển khai từ nay đến năm 2035 thì tác động của đầu tư đường sắt cao tốc độ cao này làm tăng khoảng 0,97 điểm % GDP. Đây là con số hết sức đáng kể, góp phần vào tăng trưởng chung của nền kinh tế”, Thứ trưởng Trần Quốc Phương nhấn mạnh.
Đặc biệt, theo Thứ trưởng Trần Quốc Phương công trình này có tác động trực tiếp đến khoảng 7-8 lĩnh vực.
Thứ nhất, tác động đến ngành xây dựng của chúng ta trong cơ cấu GDP bởi vì đây là công trình xây lắp.
Thứ hai, tác động đến các ngành phụ trợ phục vụ cho công trình này, như ngành cung cấp vật liệu cho xây dựng công trình, kể cả các vật liệu thông thường như cát, đá, sỏi hay vật liệu đặc chủng như sắt, thép để làm đường ray hoặc các công trình khác.
Thứ ba, tác động đến các ngành dịch vụ cung cấp cho công trình này như tài chính, ngân hàng hay dịch vụ về huy động vốn…
Thứ tư, tác động lan tỏa đến phát triển đô thị. Tuyến đường này mở ra hơn 20 ga từ Bắc vào Nam. Trong định hướng phát triển tuyến đường sắt này, mỗi ga đều có các khu đô thị đính kèm. Đây cũng là một động lực cho phát triển.
“Trong tương lai chúng ta xác định phát triển đô thị là một động lực thì đây là một động lực tốt để phát triển kinh tế-xã hội”, Thứ trưởng Trần Quốc Phương bày tỏ.
Thứ năm, tác động đến các ngành khai thác sau này khi dự án đi vào vận hành, đặc biệt là dịch vụ du lịch.
Thứ sáu, tạo công ăn việc làm. Đây là công trình quy mô cực lớn, do vậy để huy động lực lượng tham gia vào xây dựng công trình này sẽ tạo ra công ăn việc làm tương đối lớn.
Ông Hoàng Gia Khánh, Tổng Giám đốc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam khẳng định, vận tải đường sắt tốc độ cao khi hình thành sẽ đóng vai trò quan trọng, đồng bộ kết nối 5 phương thức chính. Đó là, đường bộ, đường sắt, hàng hải, hàng không, đường thủy nội địa, theo trục Bắc-Nam.
Điều này không chỉ tận dụng thế mạnh từng phương thức mà còn tối ưu hóa hệ thống vận chuyển, giảm chi phí logistics, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
“Khi phương thức vận tải hàng hóa linh hoạt nhanh chóng, tiết kiệm chi phí sẽ góp phần phát triển kinh tế-xã hội”, ông Hoàng Gia Khánh nói.
Sẵn sàng nguồn lực tài chính
Vẫn theo ông Hoàng Gia Khánh, điểm mạnh của đường sắt tốc độ cao là độ an toàn cao, như tuyến đường sắt tốc độ cao Shinkansen của Nhật Bản xây dựng từ năm 1964 nhưng chưa có vụ tai nạn nào xảy ra, các nước thế giới cũng vậy.
Đặc biệt, thời gian đi lại được xác định chính xác từng phút. Tiện lợi thoải mái, hành khách đi trên tàu này có không gian rộng rãi, di chuyển trên tàu dễ dàng.
Ngoài ra, các nhà ga đặt ở các khu trung tâm, khu phát triển dân số đông cũng tạo thuận lợi cho hành khách đi lại so với các hình thức giao thông khác. Bên cạnh đó, đường sắt này điện khí hóa, thân thiện với môi trường, mang lại hiệu quả về môi trường...
Phân tích dưới góc độ tập trung nguồn lực tài chính cho dự án, Thứ trưởng Bộ Tài chính Bùi Văn Khắng cho biết các bộ, ngành thời gian qua đã phối hợp rất chặt chẽ và thống nhất đưa ra ba nhóm giải pháp điều hành tổng thể và bốn phương pháp huy động nguồn lực.
Ba nhóm giải pháp điều hành tổng thể gồm: Thứ nhất, đổi mới mô hình tăng trưởng, điều hành kinh tế xã hội linh hoạt, hiệu quả để góp phần tăng thu ngân sách hằng năm với tinh thần năm sau phải cao hơn năm trước.
Thứ hai, điều hành chính sách tài khóa linh hoạt, hiệu quả theo hướng triệt để tiết kiệm và chống lãng phí để tập trung nguồn lực cho đầu tư phát triển.
Thứ ba, sửa đổi thể chế, tháo gỡ nút thắt, điểm nghẽn trong thu hút nguồn lực trong lĩnh vực tài chính, đầu tư.
“Giải pháp này Chính phủ đã có tờ trình trình Quốc hội thảo luận, thông qua trong kỳ họp này”, ông Bùi Văn Khắng nói.
Về bốn phương án huy động nguồn lực bao gồm. Một là, xây dựng kế hoạch tài chính quốc gia 5 năm cho ba giai đoạn đến năm 2035 trên tinh thần chủ động, cân đối nguồn lực để đảm bảo đầy đủ các nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước theo quy định của Luật Ngân sách.
Trong đó, tập trung ưu tiên chi cho đầu tư phát triển, nhất là các dự án quốc gia và trọng điểm ngành giao thông vận tải, trong đó có dự án đường sắt tốc độ cao, với tinh thần kết hợp cả ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương, lấy ngân sách Trung ương giữ vai trò chủ đạo.
Hai là, thu hút nguồn lực, huy động trái phiếu Chính phủ với kỳ hạn lãi suất phù hợp, với điều kiện thị trường và tiến độ thực hiện của các dự án.
Ba là, thu hút nguồn lực đầu tư trong nước bao gồm cả hình thức hợp tác công tư.
Bốn là, huy động nguồn lực ngoài nước có ưu đãi cao, điều kiện đàm phán hợp lý và ít ràng buộc.
“Với ba giải pháp và bốn phương án huy động nguồn lực như trên, chúng ta tin tưởng công tác chuẩn bị tài chính cho dự án đường sắt tốc độ cao đã sẵn sàng để đảm bảo được nguồn lực tài chính ở mức cao nhất theo lộ trình phê duyệt và tiến độ thực hiện dự án đảm bảo theo đúng chủ trương Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 10”, ông Bùi Văn Khắng bày tỏ.