Đường sắt tốc độ cao: Các chính sách đều ưu tiên doanh nghiệp trong nước
Trong quá trình xây dựng đề án đường sắt tốc độ cao, chúng tôi đều đưa ra cơ chế chính sách để doanh nghiệp trong nước tham gia được.
Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Danh Huy khẳng định tại cuộc Toạ đàm "Đường sắt tốc độ cao – Thời cơ và thách thức" do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức, chiều 29/10.
Theo Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Danh Huy, trong quá trình xây dựng đề án trình Bộ Chính trị, sau đó trình Trung ương, cũng như báo cáo khả thi Chính phủ trình Quốc hội lần này, Bộ GTVT đều đưa ra cơ chế chính sách làm sao doanh nghiệp trong nước tham gia được.
“Cụ thể, ràng buộc các điều kiện, tổng thầu phải sử dụng dịch vụ hàng hóa trong nước sản xuất được, đó là điều kiện tiên quyết với các nhà thầu khi tham gia. Đưa ra chính sách trình Quốc hội, giao nhiệm vụ cho các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, đặt hàng các doanh nghiệp trong nước, các hạng mục, hàng hóa trong nước có thể sản xuất được”, Thứ trưởng Nguyễn Danh Huy nói.
Thứ trưởng Nguyễn Danh Huy cho biết Bộ đã khảo sát làm việc với các doanh nghiệp luyện kim, sản xuất thép, Tổng công ty Đường sắt về các tiền đề sản xuất đầu máy toa xe, không chỉ đường sắt tốc độ cao, mà hướng tới thị trường lớn hơn là hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị…
“Việc đầu tư làm chủ công nghệ đó phải hiệu quả, thận trọng kỹ lưỡng chọn cơ chế chính sách phát triển công nghiệp. Trong cơ chế chính sách chúng tôi đã trình Bộ Chính trị, trình Trung ương, trong đề án tờ trình báo cáo khả thi trình Quốc hội, chúng tôi cũng đưa ra các tiền đề khuyến khích các doanh nghiệp trong nước tham gia...”, Thứ trưởng Nguyễn Danh Huy bày tỏ.
Ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội bình luận mong muốn của chúng tôi là doanh nghiệp trong nước không chỉ tham gia xây dựng đường sắt mà dần làm chủ, trở thành chủ thể chính vận hành, quản lý đường sắt.
“Quan trọng nhất là phải có chiến lược triển khai việc này, nâng cao năng lực doanh nghiệp trong nước. Cơ chế chính sách là rất cần thiết. Dự án này không thể thành công, triển khai đúng tiến độ nếu thiếu cơ chế chính sách đặc thù. Tuy nhiên, điều này cũng rất khó khăn vì chưa có tiền lệ”, ông Phan Đức Hiếu bày tỏ.
Vẫn theo ông Phan Đức Hiếu, việc ban đầu xác định 19 nhóm cơ chế chính sách hay bao nhiêu vẫn còn là thách thức. Trong các nhóm cơ chế này, chúng ta phải tìm ra các cơ chế linh hoạt. Trong quá trình triển khai, phát sinh vấn đề, nếu áp dụng quy trình tuần tự thì không đủ linh hoạt, nên cần cơ chế giải quyết nhanh các vấn đề.
“Chính phủ có thể xem xét ngoài các nhóm đã trình, đã "điểm mặt đặt tên" thì có thể tạo ra một số cơ chế nào linh hoạt hơn, trao thẩm quyền mạnh hơn, xử lý ngay các vấn đề phát sinh, bảo đảm tính hiệu quả trong việc triển khai dự án quan trọng, chưa có tiền lệ, mặc dù vẫn biết đây là việc khó”, ông Phan Đức Hiếu đề xuất.
Trao đổi về nội dung này, ông Hoàng Gia Khánh, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam cho biết lực lượng lao động của ngành đường sắt trên 22.000 người. Đây là lực lượng chính, là tiền đề để thực hiện nhiệm vụ do Chính phủ giao, với vai trò quản lý, khai thác, vận hành tuyến đường sắt tốc độ cao này.
“Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng công ty Đường sắt Việt Nam phải thực hiện ngay nhiệm vụ chuẩn bị tái cơ cấu để xây dựng một mô hình phù hợp với điều kiện quản lý, khai thác, vận hành tuyến đường sắt tốc độ cao”, ông Hoàng Gia Khánh nói.
Bên cạnh đó, ngành đường sắt phải chuẩn bị phát triển nguồn nhân lực cho quản lý, khai thác, vận hành tuyến đường sắt cao. Đây là một trong những nội dung quan trọng với lực lượng cần lên tới gần 14.000 người.
“Hiện nay, chúng tôi đang tổ chức triển khai bố trí lực lượng trong ngành để học tập tại các nước phát triển công nghiệp đường sắt”, ông Hoàng Gia Khánh chia sẻ.
Về phát triển công nghiệp đường sắt, ông Hoàng Gia Khánh cho biết Bộ GTVT cũng đã giao và Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam đang chủ động phối hợp với các doanh nghiệp trong và ngoài nước có năng lực để chuẩn bị hợp tác, xây dựng các mô hình tổ chức cũng như cơ sở vật chất, sẵn sàng tiếp nhận khi được giao.
Hiện nay, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đã định lượng, đưa ra các tổ, ban chỉ đạo trong Tổng công ty sẵn sàng cho việc tổ chức khai thác, quản lý vận hành. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, đào tạo về lái máy cũng như điều khiển tự động, phải mất từ 5-8 năm.
“Nếu sử dụng lực lượng ở trong ngành đường sắt hiện hữu và đang có đủ khả năng, chúng ta chỉ cần đào tạo từ 3-5 năm. Như vậy, kinh phí để rút ngắn thời gian đào tạo cũng là một khoản kinh phí tiết kiệm cho dự án”, ông Hoàng Gia Khánh nhấn mạnh.
Mặt khác, với nội dung phát triển công nghiệp đường sắt, hiện nay Tổng công ty Đường sắt Việt Nam có hai cơ sở chính tại Gia Lâm và Dĩ An. Tỉ lệ nội địa hóa hiện nay với đường sắt hiện hữu lên tới 70-80%.
“Do đó, với đường sắt tốc độ cao, chúng ta phải hợp tác liên doanh với các nước phát triển để thực hiện tốt nội dung này”, ông Hoàng Gia Khánh đề xuất.