Xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp bền vững hướng tới mục tiêu Net Zero vào năm 2050
Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức Diễn đàn Xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp bền vững hướng tới mục tiêu Net Zero vào năm 2025.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh khí hậu COP26 (2021), Việt Nam đã cam kết đạt mức phát thải ròng bằng "0" (Net Zero) vào năm 2050. Tại COP28 (2023), Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã một lần nữa cam kết với toàn thế giới: Việt Nam sẽ hướng tới mục tiêu Net Zero vào năm 2050. Chính vì vậy, mục tiêu Net Zero đã được cụ thể hóa, phân bổ theo các ngành, lĩnh vực, đồng thời các định hướng chính sách cũng đã được xác định để triển khai thực hiện.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Kế hoạch hành động giảm phát thải khí methane đến năm 2030; Kế hoạch quốc gia triển khai tuyên bố Glasgow về rừng và sử dụng đất đến năm 2030… để cùng các ngành khác đồng lòng thực hiện net zero.
Theo các chuyên gia kinh tế, thực hiện nông nghiệp “Net Zero” giúp người sản xuất không chỉ tối ưu hóa tài nguyên mà còn giúp cải thiện hiệu suất, chất lượng sản phẩm. Song song với đó, doanh nghiệp sản xuất - thương mại sẽ đáp ứng được các tiêu chuẩn chung trong sản xuất, sản phẩm... theo đúng yêu cầu của thị trường nhập khẩu, giá trị thương hiệu tăng, dễ thâm nhập các thị trường có giá trị cao.
Được sự chỉ đạo của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và UBND thành phố Cần Thơ Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức:
DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG HỆ SINH THÁI NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG HƯỚNG TỚI MỤC TIÊU NET ZERO VÀO NĂM 2050
Thời gian: 08h30 – 11h30, Thứ Năm, ngày 19/12/2024
Địa điểm: Khách sạn Mường Thanh Cần Thơ, Khu E1, phường Cái Khế, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ
Tham dự Diễn đàn về phía lãnh đạo tỉnh/thành có: Ông Trần Việt Trường, Chủ tịch UBND Thành phố Cần Thơ; Ông Lê Văn Hẳn, Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh; Ông Huỳnh Văn Sơn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Long An.
Về phía Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), xin trân trọng giới thiệu: Ông Phạm Tấn Công - Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); Ông Võ Tân Thành – Phó Chủ tịch VCCI.
Về phía các diễn giả có bà Huỳnh Kim Định - Phó Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn kiêm Phó Chánh Văn phòng Điều phối nông nghiệp, nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long; Ông Ngô Xuân Chinh - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp (Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam, IASVN); Ông Phạm Trường Yên - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cần Thơ; Ông Trần Thái Nghiêm - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông nghiệp Cần Thơ; Ông Huỳnh Minh Đường - PGĐ Sở NN và PTNT Đồng Tháp; PGS TS Nguyễn Văn Sánh - nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế - Xã hội Cần Thơ
Về phía Ban Tổ chức có ông Nguyễn Phương Lam - Giám đốc VCCI Chi nhánh ĐBSCL; Ông Phạm Hùng - Phó Tổng Biên tập kiêm Trưởng cơ quan đại diện Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phía Nam.
Và các doanh nhân, doanh nghiệp các hợp tác xã nông nghiệp có ông Trần Hoài Bão - Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã tỉnh Vĩnh Long; Ông Huỳnh Văn Thòn - Chủ tịch Tập đoàn Lộc Trời; Bà Nguyễn Thị Kim Thoa – Giám đốc điều hành Công ty cổ phần Sản xuất thương mại Abavina - Đại biểu quốc hội trẻ tuổi nhất khóa XIV; Ông Tô Thái Thành - Tổng Giám đốc Công CP Tập đoàn Tiến Thịnh.
Chương trình còn có sự tham gia của các đại diện các đơn vị, cơ quan chuyên môn thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT; Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Công Thương; Bộ Khoa học và Công nghệ; Viện Nghiên cứu chính sách nông nghiệp; Trường ĐH Cần Thơ; cùng các lãnh đạo các cơ quan Sở ngành, doanh nghiệp trên địa bàn Cần Thơ, các doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực nông nghiệp, doanh nghiệp hội viên VCCI.
Ban tổ chức trân trọng cảm ơn Công ty Cổ phần Phân bón Dầu khí Cà Mau (PVCFC): Công ty cổ phần Tập đoàn Trường Hải: Công ty cổ phần phân bón Bình Điền đã đồng hành cùng chương trình.
Ban tổ chức cũng đặc biệt cảm ơn các nhà báo/phóng viên các cơ quan thông tấn báo chí đã dành thời gian tham dự.
Chương trình được tường thuật trực tuyến trên https://diendandoanhnghiep.vn/
Tạo đà bứt phá cho phát triển xanh vươn tầm cao mới
Phát biểu chào mừng tại Diễn đàn, ông Trần Việt Trường - Chủ tịch UBND Thành phố Cần Thơ thông tin, Net-zero hay còn gọi là phát thải ròng bằng 0, là mục tiêu mà nhiều quốc gia và tổ chức trên toàn thế giới đang hướng tới nhằm ngăn chặn biến đổi khí hậu. Net-zero là trạng thái lý tưởng khi lượng khí nhà kính thải vào khí quyển Trái đất được cân bằng với lượng GHG (khí nhà kính) được loại bỏ.
Nông nghiệp bền vững là phương thức canh tác nông nghiệp theo cách bền vững có nghĩa là đáp ứng nhu cầu thực phẩm và dệt may hiện tại của xã hội, mà không ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ hiện tại hoặc tương lai. Nông nghiệp này có thể dựa trên sự hiểu biết về các dịch vụ hệ sinh thái.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế toàn cầu, tăng trưởng xanh, nông nghiệp xanh đã dần trở thành xu hướng phát triển chủ đạo. Nhiều cơ chế, chính sách tạo điều kiện phát triển nông nghiệp xanh đã được ban hành.
Chủ tịch UBND Thành phố Cần Thơ cho rằng, với chủ đề “Xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp bền vững hướng tới mục tiêu net-zero vào năm 2050” hôm nay phản ánh một trong những thách thức lớn nhất trong quá trình phát triển kinh tế, đó là biến đổi khí hậu, đặc biệt đối với các quốc gia có nền kinh tế dựa vào nông nghiệp như Việt Nam. Cam kết của Việt Nam tại các Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc lần thứ 26 (COP26) và lần thứ 28 (COP28), cùng với các định hướng chiến lược và chính sách giảm phát thải đã thúc đẩy các ngành kinh tế phải chuyển đổi theo hướng xanh và bền vững. Trong đó, lĩnh vực nông nghiệp được xác định là trụ cột quan trọng trong chiến lược giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam.
Theo ông Trần Việt Trường - Chủ tịch UBND Thành phố Cần Thơ, giống như hầu hết các nước trên thế giới, trong cơ cấu phát thải khí nhà kính của Việt Nam, ngành nông nghiệp chỉ xếp sau ngành năng lượng và giao thông vận tải về lượng phát thải khí nhà kính ra môi trường, chiếm tới 43% tổng lượng phát thải quốc gia. Đây cũng là lĩnh vực chịu ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng từ tác động của biến đổi khí hậu. Do vậy, "chuyển đổi mô hình theo hướng nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn và phát thải thấp là sự lựa chọn được ưu tiên hàng đầu, đồng thời cũng là cơ hội chuyển mình mạnh mẽ cho ngành nông nghiệp của Việt Nam nói chung và vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng" - vị Chủ tịch nhấn mạnh.
Trong xu thế phát triển trên, những chủ trương, chính sách cấp quốc gia đã được ban hành, như Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan đến năm 2030 và đặc biệt là Đề án phát triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030. Các chủ trương này đã và đang tạo nên những chuyển biến tích cực cho ngành nông nghiệp của vùng ĐBSCL và quốc gia.
Với vị thế là trung tâm kinh tế, khoa học công nghệ của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, ông Trần Việt Trường - Chủ tịch UBND Thành phố Cần Thơ cho biết, thành phố Cần Thơ ý thức sâu sắc về trách nhiệm trong việc thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững và giảm phát thải khí nhà kính.
Những năm qua, thành phố đã tích cực triển khai các mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng sinh thái, tuần hoàn và hữu cơ, tập trung giảm phát thải khí mê-tan trong sản xuất lúa gạo. Các sáng kiến về xây dựng chuỗi giá trị, phát triển vùng nguyên liệu chất lượng cao và ứng dụng công nghệ thông minh trong sản xuất đã từng bước nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp của địa phương, góp phần khẳng định vị thế không chỉ của Cần Thơ, mà còn của vùng ĐBSCL trên Bản đồ nông nghiệp xanh quốc gia và quốc tế.
Đối với nông nghiệp hữu cơ, ông Trần Việt Trường thông tin, tuy không phải là địa phương nằm trong Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020 - 2030 của Chính phủ, nhưng thành phố Cần Thơ vẫn quyết tâm hình thành vùng sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên 4,000 héc-ta lúa; 1,300 héc-ta cây ăn trái và 150 héc-ta rau màu. Bên cạnh đó, thành phố Cần Thơ phối hợp chặt chẽ với Viện Nghiên cứu lúa gạo Quốc tế và các đơn vị liên quan tích cực hỗ trợ, hướng dẫn nông dân trong quản lý, khai thác và sử dụng nguồn rơm từ quá trình sản xuất lúa theo hướng kinh tế tuần hoàn. Đây là Chương trình nằm trong Đề án 01 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030. Qua đó, đã giúp nông dân có điều kiện nâng cao thu nhập và khắc phục tình trạng đốt bỏ rơm rạ trên đồng ruộng (vừa lãng phí, vừa tác động xấu đến môi trường).
Trong quá trình xây dựng Hệ sinh thái nông nghiệp bền vững hướng tới mục tiêu net-zero vào năm 2050, việc hình thành và phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp đóng vai trò then chốt. Chuỗi giá trị bền vững không chỉ bao gồm sản xuất, mà còn mở rộng từ khâu chế biến, bảo quản, đến tiêu thụ sản phẩm. Vị Chủ tịch UBND Thành phố Cần Thơ cho biết, thành phố đang tập trung xây dựng các chuỗi giá trị nông nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm, áp dụng công nghệ tiên tiến nhằm giảm phát thải khí nhà kính và tăng thu nhập cho người nông dân. Trong đó, khuyến khích nông dân và doanh nghiệp tham gia sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP và hữu cơ được xem là giải pháp đột phá.
Cần Thơ cũng đang chú trọng vào việc thúc đẩy các dịch vụ nông nghiệp hiện đại, như nghiên cứu, cung cấp giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao và khả năng chống chịu tốt với biến đổi khí hậu. Các dịch vụ tư vấn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ thông minh như hệ thống canh tác tiết kiệm nước, bón phân thông minh và quản lý sâu bệnh dựa trên nền tảng số hóa được đẩy mạnh để hỗ trợ nông dân giảm phát thải trong sản xuất.
Bên cạnh đó, Thành phố đẩy mạnh Chương trình liên kết giữa các hợp tác xã, doanh nghiệp và nhà khoa học nhằm tối ưu hóa quy trình sản xuất, giảm thiểu lãng phí tài nguyên và nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai.
Nhìn nhận từ thực tế, ông Trường cũng cho biết, để hiện thực hóa mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, chúng ta sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn cần giải quyết. Trong đó, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền, doanh nghiệp, nhà khoa học và cộng đồng người dân là yếu tố then chốt.
Do đó, "Thành phố Cần Thơ mong muốn Diễn đàn hôm nay sẽ là cơ hội để các bên cùng trao đổi, thảo luận và đề xuất những giải pháp đột phá, khả thi cho ngành nông nghiệp trong khu vực" - ông Trần Việt Trường - Chủ tịch UBND Thành phố Cần Thơ nhấn mạnh và kỳ vọng rằng thông qua những kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn được chia sẻ từ các Chuyên gia, các Nhà khoa học, Diễn đàn sẽ góp phần thúc đẩy, triển khai thực hiện hiệu quả các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp bền vững, huy động nguồn lực đầu tư từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước cũng như mở ra các cơ hội hợp tác hiệu quả giữa các bên liên quan, góp phần tạo sức bật cho thu hút đầu tư nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp thông minh, tạo đà bứt phá cho phát triển xanh vươn lên tầm cao mới.
Cơ hội để ngành nông nghiệp chuyển mình
Phát biểu khai mạc diễn đàn, Phó Chủ tịch VCCI Võ Tân Thành phát biểu tại Diễn đàn "Xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp bền vững hướng tới mục tiêu net zero vào năm 2050", do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), UBND TP Cần Thơ chỉ đạo, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức ngày 19/12/2024.
Khai mạc Diễn đàn, Phó Chủ tịch VCCI Võ Tân Thành nhận định, trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn ra ngày càng nghiêm trọng, thế giới đang đứng trước yêu cầu cấp bách về giảm phát thải khí nhà kính. Việt Nam với vị thế là một trong những quốc gia chịu tác động nặng nề nhất đã cam kết mạnh mẽ tại Hội nghị COP26, trong đó mục tiêu đạt Net Zero vào năm 2050 là kim chỉ nam quan trọng.
Theo Phó Chủ tịch VCCI Võ Tân Thành, ngành nông nghiệp mặc dù là trụ cột của nền kinh tế Việt Nam, nhưng hiện lại chiếm hơn 30% tổng phát thải khí nhà kính quốc gia, đặc biệt là từ hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, sử dụng phân bón hóa học và đốt rơm rạ.
“Chỉ riêng sản xuất lúa nước đã chiếm 46% tổng lượng phát thải trong nông nghiệp. Đây là một thách thức lớn, nhưng cũng mở ra cơ hội để ngành nông nghiệp chuyển mình, trở thành lực lượng tiên phong trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu”, Phó Chủ tịch VCCI Võ Tân Thành nhìn nhận.
Cũng theo ông Võ Tân Thành, sự phát triển nhanh chóng của nông nghiệp Việt Nam trong những năm qua không chỉ đáp ứng nhu cầu nội địa mà còn vươn xa đến các thị trường "khó tính" như Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ và Úc. Thành công này không chỉ khẳng định chất lượng nông sản Việt Nam mà còn cho thấy tiềm năng xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại, bền vững.
Tuy nhiên, trong bối cảnh tiêu chuẩn toàn cầu ngày càng khắt khe, đặc biệt là yêu cầu sản xuất nông nghiệp "xanh – sạch – ít phát thải," Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc. Việc chuyển đổi sang mô hình nông nghiệp phát thải thấp không chỉ là yêu cầu bắt buộc để đáp ứng thị trường quốc tế mà còn là con đường sống còn để bảo vệ môi trường và gia tăng giá trị cho người nông dân.
“Chính phủ đã phê duyệt nhiều chiến lược và đề án quan trọng, điển hình là Đề án phát triển 1 triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại Đồng bằng sông Cửu Long – một hình mẫu quốc tế về nông nghiệp carbon thấp. Bên cạnh đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đã xây dựng Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh, hướng tới một nền nông nghiệp sinh thái, tuần hoàn và phát thải carbon thấp”, Phó Chủ tịch VCCI Võ Tân Thành thông tin.
Ông cũng nhấn mạnh, một trong những giải pháp đột phá để giảm phát thải là áp dụng mô hình tín chỉ carbon. Đây không chỉ là công cụ thúc đẩy giảm thiểu phát thải mà còn tạo ra nguồn thu mới cho người nông dân thông qua giao dịch tín chỉ. Các mô hình nông nghiệp bền vững, như trồng dâu nuôi tằm tại Lào Cai hay Vĩnh Phúc, là minh chứng rõ ràng về hiệu quả của việc kết hợp sản xuất xanh với lợi ích kinh tế. Ông cũng kỳ vọng, vùng Đồng bằng sông Cửu Long, với vai trò là vựa lúa lớn nhất cả nước, sẽ tiếp tục tiên phong trong việc phát triển các mô hình nông nghiệp Net Zero.
“Để đạt được mục tiêu Net Zero vào năm 2050, không thể chỉ dựa vào một cá nhân hay tổ chức. Đây là nỗ lực chung của Chính phủ, doanh nghiệp, cộng đồng khoa học và người nông dân. Chính vì vậy, Diễn đàn hôm nay là cơ hội quan trọng để các bên trao đổi, hợp tác và tìm kiếm giải pháp đồng bộ nhằm xây dựng một hệ sinh thái nông nghiệp bền vững”, Phó Chủ tịch VCCI Võ Tân Thành nhấn mạnh.
Đồng thời, ông cũng đánh giá cao nỗ lực của Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp khi tổ chức sự kiện đầy ý nghĩa này. Phó Chủ tịch VCCI tin tưởng rằng, với sự hiện diện của các lãnh đạo, doanh nghiệp và chuyên gia, Diễn đàn sẽ mang lại những ý tưởng đột phá, góp phần cùng cả nước đạt được mục tiêu phát triển bền vững và Net Zero vào năm 2050.
Trà Vinh ưu tiên đầu tư đưa khoa học công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp
Thông tin tại diễn đàn, ông Lê Văn Hẳn - Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh cho biết, toàn tỉnh Trà Vinh hiện có 31.809 ha diện tích sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đạt 12,5%, bao gồm: diện tích sử dụng công nghệ tưới phun bán tự động 10.029 ha, ứng dụng công nghệ nhà lưới và thủy canh 21 ha, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP và hữu cơ 10.279 ha, nuôi thủy sản thâm canh và thâm canh mật độ cao 11.047 ha; diện tích nuôi nghêu đạt chứng nhận quốc tế (ASC) 433 ha; việc ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp mang lại hiệu quả đáng kể, như: nuôi cấy phôi và cấy mô thực vật nhân giống sạch bệnh (dừa sáp), phân bón nano, hệ thống quan trắc - ứng dụng điện toán đám mây, hệ thống tưới nước tự động, bẫy côn trùng thông minh phục vụ công tác dự tính, dự báo sâu bệnh; sử dụng máy bay không người lái phục vụ sản xuất nông nghiệp...
Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh Lê Văn Hẳn cho rằng, trước những tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, quá trình đô thị hóa và biến đổi khí hậu, cùng những yêu cầu khắt khe của thị trường… đang đặt ra những khó khăn, thách thức lớn đối với sản xuất nông nghiệp Việt Nam nói chung và tỉnh Trà Vinh nói riêng.
Thời gian qua, tỉnh đã triển khai thực hiện nhiều chương trình, đề tài, đề án, dự án, kế hoạch, cơ chế, chính sách đầu tư cho nông nghiệp, ưu tiên đầu tư đưa khoa học công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần ổn định đời sống của hơn 80% người dân sống ở khu vực nông thôn, ổn định kinh tế - xã hội và tạo nền tảng vững chắc để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Về chính sách khuyến khích thu hút đầu tư phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững, theo Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh, cùng với nhiều chính sách và luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững do Trung ương ban hành, tỉnh Trà Vinh cũng đã cụ thể hóa và triển khai kịp thời các chính sách của Trung ương, đồng thời ban hành một số chính sách đặc thù riêng, như: Chính sách ưu đãi đầu tư; chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển hợp tác xã; chính sách hỗ trợ áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt; chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển sản xuất lúa giống và lúa hàng hóa; chính sách về xây dựng và phát triển tổ hợp tác sản xuất trên biển; chính sách hỗ trợ tái cơ cấu ngành nông nghiệp... mang lại hiệu quả quan trọng, khuyến khích thu hút đầu tư phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Trà Vinh vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ, cụ thể: Thứ nhất, quy mô ứng dụng khoa học công nghệ chưa nhiều, số lượng sản phẩm còn ít, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của tỉnh.
Thứ hai, sản xuất nông nghiệp dàn trải, thiếu quy mô, nên khó ứng dụng công nghệ cao (cơ giới hóa, tự động hóa) trên quy mô lớn, vì vậy chi phí cao, hiệu quả sản xuất nông nghiệp chưa như mong muốn.
Thứ ba, trình độ sản xuất của phần lớn người dân chưa cao, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp thiếu bền vững; thiếu kỹ thuật viên, cộng tác viên, chuyên gia có trình
độ khoa học - kỹ thuật và kinh nghiệm để hướng dẫn người dân áp dụng các biện pháp sản xuất tiên tiến.
Thứ tư, việc tiếp cận nguồn vốn còn hạn chế, nhiều mô hình chỉ ứng dụng ở một số công đoạn nên chuỗi sản xuất chưa đồng bộ, vốn đầu tư ban đầu lớn, thời gian thu hồi vốn kéo dài và giá cả sản phẩm nông nghiệp biến động, dẫn đến tâm lý e ngại và khó nhân rộng. Người dân còn trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước, chưa mạnh dạn đầu tư.
Thứ năm, công tác dự báo cung cầu còn bất cập, thị trường đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp chưa ổn định.
Thứ sáu, chưa có sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp vào liên kết sản xuất; liên kết giữa 4 nhà "Nhà nước - Nhà khoa học - Nhà doanh nghiệp - Nhà nông" thiếu bền vững.
Từ đó, Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh Lê Văn Hằn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh phong trào sáng kiến cải tiến kỹ thuật, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Trà Vinh trong thời gian tới.
Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động để nâng cao nhận thức, trách nhiệm các ngành, các cấp và người dân về vị trí, vai trò, mục đích, ý nghĩa của việc ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp.
Hai là, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp, chế biến và kinh doanh; chú trọng nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng để nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế.
Ba là, tạo động lực thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao; xây dựng và nhân rộng nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp gắn với chuỗi liên kết tiêu thụ sản phẩm.
Bốn là, đẩy mạnh việc ứng dụng cơ giới hóa, tự động hóa và chuyển đổi số trong phát triển sản xuất, kinh doanh nông nghiệp.
Năm là, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng, thúc đẩy chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, phát triển thị trường và hợp tác quốc tế, chủ động thúc đẩy hình thành quan hệ đối tác công nghệ với các nước tiên tiến để tiếp cận công nghệ mới phục vụ trong nông nghiệp.
Sáu là, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách về nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
Bảy là, nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm các nước, lựa chọn các mô hình sản xuất nông nghiệp phù hợp, đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn đồng bộ, hiện đại, tạo nền tảng đẩy nhanh quá trình ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp ở từng địa phương.
Tám là, tăng cường công tác xúc tiến thương mại mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản; xây dựng thương hiệu và chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc, quản lý chất lượng sản phẩm.
Chín là, tổ chức lại sản xuất theo các loại hình kinh tế hợp tác, hợp tác xã để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo chuỗi liên kết bền vững nhằm mở ra các cơ hội ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp; tăng cường chặt chẽ mối liên kết 4 nhà "Nhà nước - Nhà khoa học - Nhà doanh nghiệp - Nhà nông".
Mười là, cần phát huy vai trò và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
Thay đổi tư duy về sản xuất
Phát biểu tại Diễn đàn, bà Huỳnh Kim Định - Phó Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn; kiêm Phó Chánh Văn phòng Điều phối nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL cho biết, sản xuất nông nghiệp xanh là xu hướng tất yếu của thế giới, để ứng phó các vấn đề về môi trường, biến đổi khí hậu và nhu cầu đảm bảo an ninh lương thực bền vững.
Biến đổi khí hậu đang tác động tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp, tầng suất thiên tai, hạn hán, lũ lụt ngày càng nhiều, diễn biến bất thường và các điều kiện khí hậu cực đoan. Trong khi đó, nông nghiệp xanh mang lại nhiều lợi ích, có tác động tích cực đến hiệu quả kinh tế, môi trường và xã hội, giúp giảm thiểu phát thải khí nhà kính, tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường.
Các phương pháp nông nghiệp xanh được ứng dụng vào thực tiển tại Việt Nam có thể kể đến: sản xuất sinh thái, thuận thiên, hữu cơ, nông nghiệp chính xác và hệ thống canh tác kết hợp (xen canh, luân canh, vườn – ao – chuồng – Biogas, canh tác đa tầng) giúp bảo vệ sức khỏe đất, sức khỏe cây trồng, kiểm soát dịch hại, và giảm thiểu lạm dụng hóa chất.
Bà Huỳnh Kim Định chia sẻ, hiện nay, sản xuất nông nghiệp xanh tiến đến sản xuất nông nghiệp “Net Zero” đã được nhiều nước trên thế giới thực hiện, với những lĩnh vực trọng tâm, ưu tiên tùy thuộc vào đặc thù của mỗi quốc gia. Tính đến hiện tại, hơn 190 quốc gia đã cam kết đạt mục tiêu Net Zero (phát thải carbon ròng bằng 0), với mục tiêu cuối cùng là đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 hoặc 2060, tùy thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia được ghi nhận trong Thỏa thuận Paris của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu năm 2015.
Mặc dù các nước có các chiến lược, giải pháp khác nhau tùy thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi quốc gia nhưng từ kết quả thực hiện chuyển đổi sản xuất nông nghiệp xanh của các nước trên thế giới như Đan Mạch, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hà Lan, Australia... thì một số yếu tố quan trọng tác động hiệu quả đến chuyển đổi sản xuất nông nghiệp xanh có thể kể đến như:
Thứ nhất, xác định đối tượng, lĩnh vực trọng tâm; mục tiêu, giải pháp và lộ trình thực hiện.
Thứ hai, đào tạo nâng cao năng lực và nhận thức các tác nhân tham gia chuỗi giá trị, đặc biệt là người nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu chủ động thực hành sản xuất nông nghiệp xanh.
Thứ ba, đầu tư vào lĩnh vực khoa học công nghệ phục vụ sản xuất nông nghiệp xanh (cơ giới hóa nông nghiệp xanh, sử dụng nguồn năng lượng tái tạo, khai thác sử dụng hiệu quả nguồn phụ phẩm nông nghiệp....) cũng là yếu tố quan trọng để nâng cao lợi nhuận, hiệu quả sản xuất và giảm thiểu tác động đến môi trường;.
Thứ tư, phát triển chuỗi cung ứng, ưu tiên xây dựng chuỗi cung ứng ngắn, minh bạch nhằm gia tăng giá trị sản phẩm và đảm bảo chất lượng.
Thứ năm, điều kiện tiên quyết là sự hỗ trợ chính sách của Chính phủ tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để người dân chuyển đổi sang sản xuất nông nghiệp xanh, thúc đẩy hợp tác quốc tế trong nghiên cứu phát triển công nghệ xanh, khuyến khích doanh nghiệp nhà đầu tư vào các dự án nông nghiệp xanh và đẩy mạnh xuất khẩu nông sản xanh, dịch vụ xanh trên trường quốc tế.
Tại Việt Nam, về thực trạng về sản xuất nông nghiệp xanh, bà Huỳnh Kim Định cho biết, sản xuất nông nghiệp xanh tại Việt Nam đã trở thành một yêu cầu cấp thiết để đối phó với các thách thức về môi trường và kinh tế.
Nhiều cơ chế, chính sách đã được ban hành, như: Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022, khẳng định vai trò quan trọng của nền nông nghiệp hữu cơ và tuần hoàn, đáp ứng nhu cầu thị trường; Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 28/1/2022 phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, đặt mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, năng suất, chất lượng và bền vững; Kế hoạch hành động thực hiện chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh được phê duyệt, hướng tới phát triển nông nghiệp sinh thái, tuần hoàn và phát thải carbon thấp (tháng 9/2022); Quyết định số 885/QĐ-TTg ngày 23/6/2020 phê duyệt đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030, với mục tiêu phát triển nền nông nghiệp hữu cơ có giá trị gia tăng cao, bền vững, thân thiện với môi trường, phù hợp tiêu chuẩn quốc tế, đưa Việt Nam ngang tầm các nước tiên tiến trên thế giới.
Một số mô hình nông nghiệp xanh đã được nghiên cứu ứng dụng, ngày càng hoàn thiện; nhiều quy trình sản xuất nông nghiệp xanh đã được xây dựng, sản xuất nông nghiệp xanh được duy trì phát triển bởi những người tâm huyết, quan tâm đến môi trường, sức khỏe cộng đồng và các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương. Mô hình nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp chính xác, bảo vệ rừng và trồng dược liệu dưới tán rừng….
Về chuyển đổi sản xuất nông nghiệp xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long thì vùng có diện tích tự nhiên 4.092.000 ha, với 2.575.000 ha đất sử dụng canh tác nông nghiệp; trong đó: diện tích gieo trồng lúa: hơn 3.823.000 ha, sản lượng đạt: 23 – 24 triệu tấn lúa; chiếm trên 55% sản lượng lúa và trên 90% sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Phát thải khí nhà kính trong hệ thống sản xuất lúa với canh tác lúa nước phát thải trung bình 43,79 triệu tấn CO2 tương đương/năm, chiếm 49,35% tổng lượng phát thải nông nghiệp và 15,42% tổng lượng phát thải khí nhà kính cả nước.
Theo bà Định, đã có nhiều chương trình, dự án thực hiện xuyên suốt, kiên trì để hỗ trợ người nông dân tiếp cận, ứng dụng tiến bộ khoa học vào mô hình canh tác cây lúa nước theo hướng phát triển bền vững, có thể kể đến như: Chương trình 3 giảm 3 tăng, chương trình 1 phải 5 giảm, tiết kiệm nước, ngập khô xen kẻ, tái sử dụng các phụ phẩm trong chuỗi giá trị lúa gạo, chương trình phát triển giống cây trồng, sử dụng giống lúa xác nhận, chương trình giảm lượng giống gieo sạ xuống 120 ký/ha rồi đến 60 - 80 ký/ha, chương trình IPM, ICM, IPHM, chương trình ứng dụng công nghiệp công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp, chương trình cơ giới hóa trong nông nghiệp, chương trình sản xuất đạt SRP, chương trình nâng cao chất lượng lúa gạo VietGAP, GlobalGAP, sản xuất sinh thái, hữu cơ…
Dấu ấn trong liên kết tổ chức quốc tế đưa cuộc cách mạng xanh thay đổi tư duy sản xuất lúa qua các dự án như: dự án chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam (VnSAT - WB), triển khai tại 8 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, giai đoạn 2015-2022, trên diện tích 180.000 ha lúa, hiện nay, HTX đã tự mở rộng được hơn 8.000 ha và Dự án sản xuất lúa bền vững và giảm phát thải khí nhà kính AgResults - SNV tại Thái Bình năm 2016-2021.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, bà cho rằng, đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn những hạn chế như: Vùng chuyên canh lúa còn manh mún, hệ thống thủy lợi và giao thông nội đồng chưa đồng bộ, hệ thống logistics (vận chuyển, tồn trữ, bảo quản…) chưa đảm bảo được yêu cầu nâng cao chất lượng, hạ giá thành lúa gạo và gây nhiều rủi ro, trở ngại cho bà con nông dân trong thích ứng với biến đổi khí hậu; thiếu hợp tác xã mạnh làm đầu tàu trong ngành hàng lúa gạo.
Sự liên kết, hợp tác theo chuỗi giá trị giữa người trồng lúa, hợp tác xã, doanh nghiệp còn lỏng lẽo thông qua hợp đồng mua bán thông thường dẫn đến tư duy “mùa vụ” của người nông dân, HTX và tư duy “thương vụ” của doanh nghiệp...
Trước bối cảnh trên, Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định số 1490/QĐ-TTg ngày 27/11/2023 phê duyệt Đề án "Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030".
Đề án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong định hướng chuyển đổi phương thức canh tác lúa bền vững ở ĐBSCL với mục tiêu tăng lợi nhuận cho người trồng lúa, hoàn thiện cơ sở hạ tầng đồng ruộng, nâng cao chất lượng lúa gạo, xây dựng thương hiệu tạo lợi thế cạnh tranh đưa sản phẩm lúa gạo vào kênh tiêu thụ cấp cao, tổ chức lại sản xuất, tổ chức chuỗi liên kết ngành hàng lúa gạo chất lượng cao, phát thải thấp, minh bạch, đoàn kết, trách nhiệm và bền vững; góp phần bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính và góp phần thực hiện các cam kết của Việt Nam với quốc tế.
Vì vậy, theo bà Huỳnh Kim Định, Đề án "Xây dựng và phát triển một triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh" là một chính sách đột phá của Chính phủ Việt Nam nhằm nâng cao năng suất và chất lượng lúa, giảm thiểu phát thải khí nhà kính, và hướng đến phát triển nông nghiệp bền vững ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Chính sách này không chỉ góp phần bảo vệ môi trường mà còn giúp nâng cao giá trị sản phẩm lúa, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế, đề án thật sự là định hướng chỉ đạo một cuộc cách mạng xanh trong chuỗi ngành hàng lúa gạo, để triển khai đề án thành công đã có nhiều chính sách mang tính đột phá tháo gở nhanh, kịp thời những vướng mắc, trở ngại khi thực hiện đề án.
Qua một năm thực hiện, từ kết quả mang lại của 07 mô hình thí điểm tại 05 tỉnh, sự lan truyền và ủng hộ mạnh mẽ của người trồng lúa, hợp tác xã, doanh nghiệp cùng với sự chỉ đạo quyết liệt của hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương, sự nhiệt quyết, bám điểm của hệ thống chuyên ngành và ủng hộ cao của các tổ chức chính trị xã hội tại 12 tỉnh.
“Qua kết quả từ thực tiễn cho thấy, đề án thể hiện một chiến lược mang tính khoa học, hiện đại và khả thi cao. Tổ chức triển khai thực hiện quyết liệt dưới sự tham gia vào cuộc của cả hệ thống chính trị, chuyên ngành, đoàn thể và người nông dân đã nâng cao vị thế lúa gạo Việt Nam trên trường quốc tế và thị trường trong nước, giúp người nông dân trồng lúa vùng ĐBSCL nâng cao thu nhập, giảm thiểu rủi ro và nâng cao khả năng thích ứng chống chịu với biến đổi khí hậu, là cơ sở nền tảng để phát triển công nghiệp xanh, du lịch sinh thái” – bà Huỳnh Kim Định nhấn mạnh.
Liên kết “4 nhà” trong nông nghiệp, cần phải có sự đồng bộ
Phát biểu tại Diễn đàn PGS TS Nguyễn Văn Sánh, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế - Xã hội Cần Thơ đánh giá, thị trường là một yếu tố rất quan trọng đối với các doanh nghiệp. Theo dự báo của Đại học Harvard có 6 nhóm lương thực và thịt phẩm đến 2045, trong đó, có 3 nhóm có lợi thế cho sản xuất sẽ tăng cao.
Đầu tiên đó là sản phẩm từ sữa sẽ tăng 4% lên 8%. Sản phẩm thứ hai là thịt, cá, trứng và đậu tăng từ 11% lên 20%. Nhưng đặc biệt ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) là trái, rau màu sẽ tăng từ 11 lên 49%. Trong khi đó, 3 nhóm có xu hướng giảm đó là nhóm dầu mỡ, từ 11% xuống còn 3%; Sườn và các sản phẩm từ đường giảm từ 16% còn 5% và ngũ cốc và tinh bột nó cũng có thể giảm.Điều này chứng tỏ rằng cái cách ăn của người dân đã có sự thay đổi rất lớn.
Điểm thứ 2 về vấn đề dự báo sản xuất và tiêu thụ gạo, dự báo đến năm 2030 khoảng 559 triệu tấn, tuy nhiên, thương mại thật sự chỉ khoảng 10%, khoảng 60 triệu. ĐBSCL sản xuất lúa thương mại đạt khoảng 20%.
PGS TS Nguyễn Văn Sánh dự báo tiêu thụ thủy sản, tổng lượng thủy sản sẽ tăng từ 101 triệu tấn lên 178 triệu tấn. Khai thác tăng lên, nuôi trồng cũng tăng lên 5 lần, kéo theo tiêu thụ đầu người sẽ tăng lên từ 3,4kg lên 20,5kg. Do đó, nhu cầu tiêu thụ thủy sản trong giai đoạn tới rất quan trọng.
Về liên kết “4 nhà” (Nhà nước – Nhà khoa học – Doanh nghiệp – Nông dân) trong cấu trúc thị trường, theo PGS TS Nguyễn Văn Sánh, đầu tiên là phải có cấu trúc thị trường.Mỗi sản phẩm, cá, tôm, dù sản phẩm đó có là sản phẩm OCOP hay không thì cũng phải cần tiềm năng thị trường, đối thủ cạnh tranh, hạ tầng thị trường và chính sách. Những yếu tố này thuộc về Nhà nước phải làm.
“Còn đối với doanh nghiệp là cạnh tranh, còn đối với nông dân là lợi nhuận. Do đó, yếu tố thị trường, vai trò của Nhà nước là rất lớn, tạo ra khung chính sách và đầu tư hạ tầng thị trường, thì cơ hội của doanh nghiệp và người nông dân mới có thể thực hiện được”, PGS TS Nguyễn Văn Sánh chia sẻ.
Cũng theo PGS TS Nguyễn Văn Sánh, làm thế nào để có thể đo được hiệu quả thị trường dù sản xuất sản phẩm nào cũng cần phải có chất lượng đồng nhất, lượng đủ. Thời điểm thị trường càng cao thì giá thành càng hạ. Đây là công việc mà các nhà khoa học phải làm để nghiên cứu cấu trúc thị trường và thực hiện thị trường. Nếu làm được như vậy, sự tham gia của “4 nhà” và chức năng của từng nhà mới rõ ràng.
Đối với nông nghiệp sinh thái, ông cho rằng, nếu mà làm đúng chuẩn thì nó tăng năng suất khoảng 10%, tăng lại nhuận khoảng 30% và tiết kiệm được 40% nước, giảm thuốc bảo vệ thực vật 30% và giảm 11 tấn CO2 trên 1 năm. Nếu làm được việc này, vùng độc canh lúa khi được lồng ghép với chương trình nông thông mới, thì nó mới toàn diện với cái chính sách.
Đối với việc phát triển mô hình liên kết, PGS TS Nguyễn Văn Sánh đánh giá, đây là một mô hình rất quan trọng vì khi nói đến kết nối là tổng hợp của 3 khối liên quan đến cấu trúc thị trường, thực hiện thị trường, với hiệu quả thị trường, sau đó mới đến vai trò của các viện, trường, sở ngành… và mới ứng dụng công nghệ 4.0, số hóa, thông qua thương mại điện tử. Khi đó, mới thực hiện được chiến lược lớn hướng ngành nông nghiệp đến mục tiêu Net Zero.
Ông cũng cho rằng, một trung tâm đầu mối cần phải tích hợp được cả chế biến, giao thông, quản lý tài chánh, quản trị công nghệ thông tin, hải quan, vấn đề nhà kho, …tích hợp lại thì mới trở thành một trung tâm đầu mối. Theo Nghị quyết 45, trung tâm liên kết sản xuất và xuất khẩu vùng ĐBSCL tại Cần Thơ. Trung tâm đầu mới này phải liên kết được với cảng và thông quan, nếu làm được như vậy thì hàng hóa mới vào trung tâm này. Do đó, vấn đề liên kết “4 nhà” cần phải có sự đồng bộ, đưa các thành phần vào trung tâm đầu mối.
“Về xu hướng của thị trường, xu thế phát triển xanh, khoa học kỹ thuật cũng phải đi theo xu hướng này, thị trường nội địa của ngành nông nghiệp mới phát triển. Để hướng tới phát triển bền vững và xanh thì cần phải có công nghiệp xanh, và kinh tế tri thức. Đây là hai yếu tố không thể thiếu trong phát triển của ĐBSCL”, PGS TS Nguyễn Văn Sánh chia sẻ thêm.
THẢO LUẬN
Trong bối cảnh yêu cầu ngày càng cao về việc sản xuất nông nghiệp xanh - sạch, ít phát thải của các nhà nhập khẩu "khó tính", bản thân nhà nông, doanh nghiệp Việt phải "nhanh tay" tiến tới nông nghiệp "Net Zero" nếu không muốn thụt lùi.
Để đạt đến mục tiêu như vậy, ngành nông nghiệp Việt Nam nói riêng và các ngành liên quan, tham gia trong cùng hệ sinh thái có rất nhiều việc phải làm. Các doanh nghiệp ở từng địa phương cũng sẽ có những lợi thế và những thách thức cần vượt qua để hướng đến phát triển, là một trong hành trình chuỗi cung ứng nông nghiệp an toàn, bền vững. Với những góc nhìn từ người trong cuộc và đại diện các bên từ cơ quan quản lý, các chuyên gia, Hiệp hội đến các doanh nghiệp…
Phiên thảo luận tại Diễn đàn đã làm rõ vấn đề này. Ông Nguyễn Phương Lam, Giám đốc VCCI Chi nhánh ĐBSCL điều phối phiên thảo luận.
Ông Nguyễn Phương Lam cho biết, chúng ta vừa nghe các tham luận từ các lãnh đạo địa phương, tới các đại diện của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về các vấn đề kỹ thuật, các mô hình liên kết các nhà (Nhà nước - Doanh nghiệp - Nhà nông - Nhà khoa học).
Theo ông Nguyễn Phương Lam, năm 2024 là một năm bứt phá của nông nghiệp Việt Nam cả về sản xuất và xuất khẩu. Giá trị sản xuất tăng trưởng trên 3,2%, Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản ước đạt trên 62 tỷ USD tăng trên 18% so năm 2023, với nhiều mặt hàng tiếp tục duy trì giá trị kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD như rau quả ước 7,1 tỷ USD, gạo ước 5,7 tỷ USD, tôm 3,8 tỷ USD... Đặc biệt, xuất khẩu rau quả, gạo, cà phê, hạt điều và hạt tiêu đều có bước tăng trưởng hai con số (cà phê tăng 56,9%, hồ tiêu tăng 53,3%, cao su tăng 24,6%, gạo tăng 10,6%).
Những giá trị này rất lớn mang lại cho Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng và những thành tựu này đã thấy được vai trò rất lớn của Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
Tuy nhiên, ông Lam cũng nhìn nhận rằng, để xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp hướng tới mục tiêu Net Zero vào năm 2050 vẫn còn rất nhiều hạn chế, trong đó có một số vấn đề trọng tâm.
Thứ nhất, vấn đề biến đổi khí hậu thì khu vực ĐBSCL chịu ảnh hưởng rất lớn ở Việt Nam.
Thứ hai, là vấn đề bàn về Net Zero vào năm 2050 tức là làm sao để giảm phát thải tốt nhất thì hiện nay một mặt chúng ta đưa ra giải pháp tín chỉ carbon và một mặt các địa phương doanh nghiệp phải tính toán để thu được hiệu quả tốt.
Thứ ba, các lĩnh vực có giá trị kịm ngạch lớn như tôm, cá, lúa gạo thì vẫn còn khâu chọn giống chưa tốt. Giống cá, tôm còn lệ thuộc thuộc rất nhiều. Thứ tư là làm sao để phấn đấu đưa Việt Nam trở thành trung tâm chế biến nông sản. Cuối cùng là cần đánh giá ghi nhận những chính sách phát triển nông nghiệp, chính sách tài chính cho thực hiện các vấn đề nông nghiệp xanh.
“Trong phiên thảo luận này chuyên gia quản lý, doanh nghiệp địa phương sẽ có góc nhìn sâu hơn về những vấn đề nêu trên để có chính sách, giải pháp tốt cho Việt Nam và đặc biệt là vùng ĐBSCL” – ông Nguyễn Phương Lam nhấn mạnh.
Ông Ngô Xuân Chinh - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp (Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam, IASVN) chia sẻ: Như chúng ta đã biết hiện nay nước ta hướng tới để nền kinh tế phát triển bền vững, Net zero như cam kết của Chính phủ đến 2050, trong đó để xây dựng nền nông nghiệp bền vững không phát thải thì chúng ta phải hướng tới phát triển bền vững ở những mặt gì.
“Chúng ta luôn hướng tới phát triển vững nhưng thực tế ta có duy trì và cam kết đó có dài lâu, dài hạn hay không, đó mới là yếu tố quan trọng. Điều này mang tính chất đặc thù đặc thù từ kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý văn hóa... để làm sao có thể xây dựng chiến lược kế hoạch phát triển bền vững phù hợp với quốc gia.
Các nguyên tắc cơ bản về phát triển bền vững được ông Chinh nhấn mạnh gồm:
Thứ nhất, nguyên tắc phát triển bền vững hiện nay cần thực hiện trên nguyên tắc về sự ủy thác của nhân dân, đó là nguyên tắc làm sao thay mặt nhân dân trong từng giai đoạn thực hiện điều này. Nguyên tắc này rất quan trọng. Nhà nước ra các Thông tư, Nghị định... thì nguyên tắc này đảm bảo việc thực hiện xuyên suốt để chúng ta phát triển bền vững.
Thứ hai, nguyên tắc bình đẳng giữa thế hệ. Ví dụ với DBSCL chúng ta thấy rằng trước đây là lũ về, còn nay là thiếu nước. Bình đẳng giữa các thế hệ cho thấy nếu chúng ta không áp dụng nguyên tắc này mà cứ khai thác hết tài nguyên khoáng sản không dành cho con cháu thì đến 2050 con cháu chúng ta hoặc thế hệ xa hơn nữa không còn gì để ứng phó và phát triển.
Thứ ba, các nguyên tắc như nguyên tắc phòng ngừa rủi ro, phân quyền, ủy quyền, người sử dụng phải trả tiền.... Ví dụ các quy định về sử dụng thuốc bảo vệ thực vật phòng ngừa sâu bệnh hại, nhưng khi gây ô nhiễm thì người sử dụng đã trả tiền hay chưa. Nguyên tắc này chính là việc bán tín chỉ carbon chúng ta đang hướng tới.
Việt Nam là đất nước sản xuất nông nghiệp, có diện tích lúa nước, diện tích rừng, hệ sinh thái nông nghiệp rộng lớn. Chúng ta hướng tới thực hiện hơn triệu ha trồng lúa theo đề án Chính phủ đề ra, thực hiện theo cam kết giảm phát thải ròng bằng 0, đặc biệt nữa là chúng ta sẽ tiết kiệm được tài nguyên.
"Hiện tương khô - ướt giữa lúa nước đã được giảm phần nước hiện nay, đó cũng là tiết kiệm tài nguyên, chưa kể theo chúng tôi thử nghiệm tại 4 tỉnh, việc đưa vào xử lý rơm rạ tại đồng ruộng hiện đã có chế phẩm xử lý vi sinh chỉ xử lý trong 5-7 ngày đã trở thành phân bón tái sử dụng lại cho đất... ĐBSCL trước đây có lũ về thì có tầng mùn, nay thì như sông Hồng, nếu không đưa phân hữu cơ vào tái sử dụng đất sẽ có nguy cơ bạc màu", ông Chinh nói.
Về sơ đồ tổng quan phát triển nông nghiệp bền vững, ông Chinh đưa ra 3 mô hình phải đáp ứng: Kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh.
Mục tiêu giảm phát thài ròng bằng 0 theo dự thảo, ông Chinh nhấn mạnh, đến 2028 là -8%, -9% vào 2030 và -27% vào 3030. Ông Chinh cho rằng về lộ trình thực hiện Đề án 1 triệu hecta lúa, từ năm 2029, thị trường carbon vận hành trên toàn quốc, bổ sung các loại tín chỉ carbon được xác nhận để giao dịch trên thị trường, mở rộng chủ thể được tham gia giao dịch, kết nối thị trường trong nước với thế giới... là những cam kết mà để thực hiện cần có các giải pháp, nhóm nghiệp vụ hỗ trợ.
Chuyên gia cũng cho rằng trong Điều khoản 35 điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2020 có quy định cụ thể về tín chỉ carbon. Tại Việt Nam có sàn giao dịch tín chỉ carbon của Asean, đây là sàn giao dịch tín chỉ carbon đầu tiên của nền kinh tế hướng tới carbon thấp với tốc độ phát triển vượt bậc.
Ngoài ra tại Điều 16 Nghị định 06/2022 Chính phủ cũng quy định về các đối tượng được tham gia thị trường carbon. Trong đó lưu ý các cơ sở thuộc danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính kiểm soát và thống kê nhà kính do Thủ tướng Chính phủ ban hành, hay Các tổ chức cá nhân có liên quan đến hoạt động đầu tư, kinh doanh có hạn ngạch phát thải khí nhà kính, tín chỉ carbon trên thị trường carbon. “Đấy là những vấn đề hiện chúng ta đang hướng tới”, ông lưu ý.
Đáng chú ý tại hội thảo, ông Chinh phân tích Trung Quốc đã bắt đầu đề cập đến việc xây dựng thị trường carbon trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2015, sau đó đã tiến hành thử nghiệm trên diện rộng tại nhiều khu vực và thành thị với mức độ kinh tế khác nhau. “Trước đây Trung Quốc sản xuất phân bón hóa học lớn nhưng hiện nay Trung Quốc họ đã hạn chế và xây dựng phát thải, xây dựng môi trường xanh rất tốt, có lộ trình tới 2060”, ông Chinh chia sẻ.
Chuyên gia giới thiệu các loại carbon trên thị trường trong đó có thị trường carbon bắt buộc và thị trường carbon tự nguyên. Kinh nghiệm xây dựng nông nghiệp xanh từ các thị trường Nhật, Thái, công nghệ cho nông nghiệp tại Israel... cũng là các kinh nghiệm rất đáng được nghiên cứu, học hỏi, theo ông Ngô Xuân Chinh. Trong đó, đáng lưu ý du lịch nông nghiệp ở Thái Lan rất phát triển, còn chúng ta mới chỉ có một số ít mô hình, sản phẩm.
Phát biểu tại phiên thảo luận, ông Phạm Trường Yên – Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cần Thơ cho biết, hiện tại ngành nông nghiệp Cần Thơ có 3 lĩnh vực chính là trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản.
Diện tích canh tác trồng trọt là 3,5 tr hecta và hàng năm Cần Thơ sản xuất 3 vụ lúa với sản lượng hơn 1,3 triệu tấn lúa vụ lúa sản lượng lúa 1,3 triệu tấn.
Việc triển khai đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp mang lại ý nghĩa rất lớn đối với Cần Thơ cũng như các địa phương trong vùng ĐBSCL, góp phần chuyển đổi từ canh tác truyền thống sang cơ giới hóa đồng bộ, giảm lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và nâng cao thu nhập cho người trồng lúa.
Thành phố Cần Thơ cam kết, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi đề án 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao giảm phát thải gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL. Phấn đấu đến năm 2025 xây dựng được vùng sản xuất lúa chuyên canh chất lượng cao với quy mô 38.000ha, đến giai đoạn 2026-2030 đạt 50.000ha theo kế hoạch.
Tại Cần Thơ, thời gian qua ngành Nông nghiệp thành phố cũng tích cực thúc đẩy phát triển nông nghiệp xanh bằng nhiều mô hình và việc làm cụ thể. Nông nghiệp đã phối hợp các đơn vị triển khai mô hình thí điểm tuần hoàn trong sản xuất nông nghiệp, quản lý và khai thác sử dụng hiệu quả các phụ phẩm, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học…
Ngành nông nghiệp đã thực hiện hợp tác quốc tế, ứng dụng công nghệ cao để giảm hiệu ứng nhà kính. Ông Phạm Trường Yên chia sẻ thông tin tại Cần Thơ, hợp tác quốc tế ứng dụng sản xuất lúa giống hợp tác với giống lúa chịu nhiệt cao và chịu hạn rất tốt. Ông Phạm Trường Yên hy vọng trong thời gian tới sẽ có nhiều giải pháp ứng dụng trong tương lai để thực hiện được nông nghiệp xanh.
Về trồng trọt và nông nghiệp thủy sản thì đặc điểm là có nhiều dịch bệnh do vậy đã có các phương án để xây dựng cơ sở chăm nuôi an toàn dịch bệnh, đạt được chứng nhận tốt.
Ông Huỳnh Minh Đường, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Đồng Tháp cho biết, đối với Đồng Tháp là 1 trong những tỉnh về sản xuất nông nghiệp thứ 3 khu vực, thông tin thêm là tỉnh có cả năm ước 500 ngàn ha, trong đó Đông Xuân là vụ chính và Hè Thu 120 ngàn ha. Đồng Tháp có diện tích cây ăn trái lớn 45 ngàn ha. Ngoài ra ứng dụng theo chỉ đạo của Đảng và Chính phủ về phát triển nông nghiệp bền vững, Đồng Tháp đã có chỉ đạo quyết liệt cho sở ngành trên nền tảng nông nghiệp. “Chính quyền kiến tạo, phát triển kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh là khẩu hiệu của địa phương”, ông Đường cho biết.
Bên cạnh nhiều mô hình sản xuất, theo ông Đường, riêng về chuyển đổi số đến thời điểm này Đồng Tháp có 1 nền tảng dữ liệu số về nông nghiệp trên toàn tỉnh từ hệ thống công trình thủy lợi diện tích sản xuất khu vực hợp tác xã và các vùng... có thể liên kết thì cũng công bố rộng rãi, có thể tham khảo trên trang thông tin của tỉnh.
Trước đây Đồng Tháp cũng có mô hình lí tưởng cánh đồng Mỹ Đông do tỉnh đầu tư, mang lại hiệu quả cao. Nay thực hiện chủ trương theo đề án 1 triệu ha lúa, Đồng Tháp thực hiện thí điểm cánh đồng Thắng Lợi 50 ha đã được bầu chọn mô hình tiêu biểu toàn quốc. Sau khi mô hình được triển khai, tín chỉ carbon đo được giảm. Hiệu quả cao hơn so với việc sản xuất ngoài mô hình là 4,3 triệu đồng/ ha. Tỉnh đã ban hành kế hoạch cho đề án tổng thể đến 2025 . Do Đồng Tháp đã có 2 dự án nên từ góc độ hỗ trợ đầu tư hạ tầng đã chủ động, khu vực sản xuất cơ bản hoàn thiện nên tỉnh sẽ cố gắng và đến 2026-2030 thực hiện diện tích còn lại.
“Sắp tới, Chính phủ đã chọn Đồng Tháp xây dựng tiên phong kiểu mẫu nông nghiệp nông thôn hiện đại, tam nông”, tỉnh đã xây dựng được khung đề án và đang lấy ý kiến góp ý. Dự kiến 2025 sau khi hoàn thành sẽ trình Thủ tướng Chính phủ. Đồng Tháp kỳ vọng rất nhiều ở dự án này”, ông Đường cho biết.
Có mặt tại phiên thảo luận, ông Huỳnh Văn Thòn – Chủ tịch Tập đoàn Lộc Trời cho biết, đã đến lúc đặt bài toán phát triển hệ sinh thái nông nghiệp bền vững hướng tới Net zero là làm sao để hiện thực hóa được bài toán đã tính toán. Đây là bài toán cần thời gian lâu dài, bền bỉ.
Theo chia sẻ của ông Huỳnh Văn Thòn, Lộc Trời đã rất thành công với mô hình cánh đồng mẫu lớn nhưng hiện nay cũng vẫn còn nhiều lúng túng khi thực hiện đề án 1 triệu hecta lúa phát thải thấp. Ông cho rằng, nguyên nhân là do việc thực hiện chưa đồng bộ cả về quản lý, cơ chế chính sách và vẫn mạnh ai nấy làm.
Từ thực tế đó, ông Thòn đưa ra hai kiến nghị.
Thứ nhất, cần thiết có sự tham gia chỉ đạo, lãnh đạo như một người “nhạc trưởng” để triển khai và hiện thực hóa các chương trình đã đề ra. Thứ hai, là vấn đề chính sách cho vay, đặc biệt là cho vay nhanh chóng và thuận lợi với người nông dân. Ông cho rằng có như vậy mới từng bước để hiện thực hóa mục tiêu đang được đề ra.
Ông Tô Thái Thành – Tổng Giám đốc Công ty CP Tập đoàn Tiến Thịnh cho biết, điều quan trọng nhất đối với doanh nghiệp chế biến vẫn là chất lượng nguyên liệu đầu vào. Hiện nay, yêu cầu của người tiêu dùng trên thị trường trên thế giới càng ngày càng khắt khe, ngoài các tiêu chuẩn như thông lệ phải sản xuất theo tiêu chuẩn HACCP, ISO… thì vấn đề an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng càng ngày càng cao.
Đặc biệt, người tiêu dùng đang có xu hướng chuyển sang sản phẩm mang tính thân thiện với môi trường và nhu cầu gia tăng sản phẩm Oganic. Ngay cả người tiêu dùng Việt Nam cũng đang có xu hướng chuyển sang sử dụng các sản phẩm được trồng trọt theo mô hình oganic vừa an toàn vừa đảm bảo cho sức khỏe. Do đó, các doanh nghiệp chế biến cần phải quan tân đến vấn đề này.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, phải am hiểu được nhu cầu của người tiêu dùng mà thị trường muốn nhắm đến, qua đó, nghiên cứu và tạo ra các sản phẩm phù hợp cho thị trường đó. Có như vậy, mới tăng được giá trị cho nông sản của Việt Nam.
Theo ông Tô Thái Thành, vấn đề về chế biến thô hiện nay vẫn còn, tuy nhiên, thời gian gần đây, việc tăng cường chế biến sâu, trong đó Tiến Thịnh cũng là một đơn vị đã có sự phát triển và đã tạo được giá trị cho nông sản của Việt Nam. Nếu trước đây, Tiến Thịnh chỉ chế biến các sản phẩm nước cốt trái cây, thì gần đây, doanh nghiệp cũng đã thành công trong việc xuất khẩu các sản phẩm sấy dẻo từ trái cây như xoài, khóm, đu đủ cho các thị trường lớn khó tính như Mỹ, Canada, châu Âu…
Về phía người nông dân, ông Thành cho rằng, để có nguồn nguyên liệu đảm bảo an toàn phải phụ thuộc rất nhiều vào nguồn cung ứng nguyên liệu, mà vai trò chính là người nông dân. Người nông dân cần phải thay đổi ý thức canh tác, bởi hiện nay vẫn còn tình trạng lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, không phù hợp trong trồng trọt, dẫn đến những vấn đề rất nghiêm trong, nguy cơ bị trả hàng về, dẫn đến tổn thất về kinh tinh tế, ngoài ra còn tổn thất về uy tín với khách hàng…
Liên quan đến sản xuất xanh bền vững, theo ông Thành, sản xuất xanh bền vững không những tạo ra sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng mà còn bảo vệ chính sức khỏe của người sản xuất sau đó mới đến người tiêu dùng.
Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước, ông Thành đề xuất:
Thứ nhất, việc yêu cầu người nông dan sản xuất xanh, sản xuất theo các tiêu chuẩn thì cần phải có các chương trình, các hoạt động kiểm tra, giám sát thật chặt chẽ, đánh giá tính hiệu quả, tính khả thi cũng như kết quả của việc thực hiện của người nông dân.
Thứ hai, muốn yêu cầu tự động hóa, nâng cao chuyển đổi mô hình để mang lại giá trị, tăng giá trị, sản lượng hàng hóa…thì phải cần vốn, và vốn ở đâu để thực hiện chuyển đổi. Đây là bài toán khó giải đối với các doanh nghiệp cũng nhưng người nông dân.
Có mặt tại phiên thảo luận, ông Trần Quốc Hà - Đại diện NHNN chi nhánh Cần Thơ cho biết, theo mục tiêu tín dụng xanh, phá thải thấp, nhu cầu vốn cần huy động 144 tỷ USD, riêng dự án 1 triệu ha lúa chất lượng cao cần 2,7 tỷ USD.
Trong thời gian qua để thực hiện mục tiêu này, NHNN đã triển khai rất quyết liệt và tập trung nguồn vốn vào đúng nhu cầu, hỗ trợ nền kinh tế, hướng nguồn vốn vào tín dụng xanh. Thành phố Cần Thơ cũng đã xây dựng kế hoạch hành động cho mục tiêu chương trình này.
Ông Trần Quốc Hà thông tin, cho tới ngày hôm kia NHNN gửi các tỉnh trong đó có ĐBSCL là thống kê các chương trình tín dụng 1 triệu hecta, hợp tác xã và nông nghiệp và thống kê nhu cầu vốn đề thực của các chương trình này.
Trong những năm qua, tín dụng xanh đã thực hiện triển khai rất lâu và bình quân tăng 7% mỗi năm. Điều quan trọng là lãi suất cho vay thấp với tín dụng xanh thấp hơn lãi suất cho vay thương mại, vốn trung và dài hạn thì được ưu tiên lớn…
Từ đó, ông Hà đưa ra một số định hướng kiến nghị trọng tâm thời gian tới như tiếp tục điều hành tăng trưởng tín dụng hợp lý hướng nguồn vốn tín dụng xanh; Hoàn thành khuôn khổ pháp lý và hướng dẫn tín dụng xanh; Xây dựng lộ trình định hướng chính sách…
Ông Trần Hoài Bảo – Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã tỉnh Long An cho biết, khi nghe đề án 1 triệu hecta lúa bản thân rất vui mừng và Liên minh Hợp tác xã tỉnh Long An đã chủ động thực hiện các diện tích canh tác theo chương trình này. Việc thực hiện còn nhiều khó khăn nhưng Liên minh đã mạnh dạn để từng bước đưa các hợp tác xã vào thực hiện.
Từ thực tế triển khai, ông Trần Hoài Bảo đưa ra 2 đề xuất. Thứ nhất, chủ trương chính sách cần đồng bộ triển khai nhịp nhàng. Thứ hai, liên kết 4 Nhà cần thực hiện tốt hơn. Câu chuyện này theo ông Bảo đã nói nhiều nhưng vẫn chưa có sự liên kết tốt và việc cung cấp đầu vào và đầu ra phải cùng có trách nhiệm.
Phát biểu tổng kết tại Diễn đàn, ông Phạm Tấn Công – Chủ tịch VCCI cho biết, diễn đàn diễn ra vào những ngày năm cùng bận rộn khi khắp nơi đang hối hả “về đích” của các mục tiêu trong năm 2024.
Phải nói rằng, năm nay có nhiều tin vui, cả nước phấn khởi, tăng trưởng kinh tế năm nay dự báo sẽ vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Trong câu chuyện của buổi sáng hôm nay chúng ta đang bàn về nông nghiệp bền vững thì cây lúa năm nay tăng trưởng ấn tượng khi, xuất khẩu gạo 11 tháng đạt gần 8,5 triệu tấn với giá trị 5,31 tỷ USD. Khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam trong 11 tháng năm 2024 đạt gần 8,5 triệu tấn với giá trị 5,31 tỷ USD, tăng 10,6% về khối lượng và tăng 22,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023.
“Niềm vui thì vậy nhưng bên cạnh đó chúng ta cũng đứng trước với nhiều mối lo lớn với sự biến đổi khí hậu, phát triển mà thiếu bền vững. Đây là thách thức chung cho tất cả chúng ta và khó khăn rất lớn phải vượt qua” – Chủ tịch VCCI Phạm Tấn Công bày tỏ và cho rằng bền vững là phải dài hơi, có tầm nhìn, ổn định, vững chắc cho tới những đời sau hay cụ thể với nông nghiệp bền vững là khả năng chống trọi với thiên nhiên, khí hậu và của cả thị trường.
Do đó, vị Chủ tịch VCCI Phạm Tấn Công cho rằng, muốn phát triển bền vững phải sản xuất nông nghiệp xanh và có mô hình kinh tế nông nghiệp tuần hoàn. Phát triển nông nghiệp bền vững là cần thiết và cấp bách – đây là xu thế không thể thay đổi và có rất nhiều khó khăn để thực hiện nhưng lợi ích lại rất lớn nên không thể không làm. Làm nông nghiệp bền vững là cần cho xã hội, cho sự tồn tại hiện nay cho sản phẩm của Việt Nam và cho thế hệ con cháu sau này và là một biện pháp thị trường cần phải được thực hiện để đáp ứng các yêu cầu của thị trường.
Nhưng cách làm như thế nào? – Chủ tịch VCCI Phạm Tấn Công đặt câu hỏi. Ông cho rằng phát triển hệ sinh thái nông nghiệp bền vững phải đi từ nhận thức đồng bộ - hành động đồng bộ. Và đây chính là câu chuyện diễn ra trong diễn đàn hôm nay. Thực hành sản xuất xanh phải xác định lực lượng xuất phải từ người nông dân, người tiêu dùng và doanh nghiệp.
Muốn thực hành sản xuất xanh phải có môi trường chính sách xanh, tín dụng xanh, thị trường xanh. Làm chủ công nghệ xanh, đổi mới sáng tạo xanh để liên kết đồng bộ với nhau để việc thực hiện đi vào thực chất.
Tất cả sự đồng bộ đó được dựa trên mẫu số chung đó là tư duy nhận diện được cơ hội xanh, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn chính là động lực để làm giàu, tạo nên động lực cho sự liên kết 4 Nhà. Chúng ta phải cùng phối hợp, cùng quyết tâm dù khó cũng phải làm. Vai trò dẫn dắt từ các cấp chính quyền, thực hành triển khai từ người nông dân và có sự liên kết với các tổ chức liên quan.
Hội đồng Doanh nghiệp vì sự Phát triển Bền vững Việt Nam (VBCSD) do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thành lập dưới sự phê duyệt của Chính phủ, là một tổ chức định hướng doanh nghiệp có nhiệm vụ phát huy vai trò tích cực và sự ủng hộ nhiệt tình của cộng đồng doanh nghiệp trong việc thực hiện Chiến lược Phát triển bền vững tại Việt Nam, tạo thuận lợi cho việc chia sẻ kinh nghiệm và các thực hành tốt, tăng cường phối hợp chặt chẽ và đối thoại giữa cộng đồng doanh nghiệp, Chính phủ và các đối tác trong xã hội nhằm đẩy mạnh phát triển bền vững. VCCI cũng có vai trò kết nối với thị trường, nhà sản xuất đã và đang góp phần thực hiện cho mục tiêu chung.
“Chủ trương chúng ta đã cơ và đâu đó cơ chế cũng đã có rồi nhưng vận hành thế nào thì phải tiếp tục tính đến. Diễn đàn "Xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp bền vững hướng tới mục tiêu net zero vào năm 2050" hôm nay đã khắc họa rõ nét hơn, nhìn được hướng đi và VCCI sẽ có kiến nghị với cơ quan chức năng phù hợp để tiếp tục thúc đẩy con đường hệ sinh thái nông nghiệp bền vững đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam nói chung” – Chủ tịch VCCI nhấn mạnh.