Tín dụng - Ngân hàng

Lợi nhuận toàn ngành ngân hàng năm 2024: Phân hóa ra sao?

Lê Mỹ 25/01/2025 11:05

Bất chấp bối cảnh kinh doanh khó khăn, ngành ngân hàng với KQKD quý IV và 2024, cho thấy năng lực “gánh” lợi nhuận thị trường, dù vẫn có nhà băng giảm sút.

Nhóm ngân hàng “lãi tỷ đô”

Theo báo cáo kết quả kinh doanh quý IV/2024, nhiều ngân hàng đã ghi nhận tăng trưởng vượt chỉ tiêu kế hoạch năm. Trong đó, dẫn đầu vẫn là nhóm Big 4 và có sự "cạnh tranh" của một vài NHTM top đầu.

t.jpg
Lợi nhuận ngành ngân hàng năm 2024 có sự phân hóa, song các NH top đầu tiếp tục giữ tốc độ tăng trưởng. Ảnh minh họa

Vietcombank (VCB) - Quán quân lợi nhuận: Vietcombank đến hiện tại 25/1 chưa công bố BCTC quý IV và cả năm 2024 nhưng như thường lệ vẫn được dự báo sẽ tiếp tục đứng “trên đỉnh” lợi nhuận ngành. Trước đó, tại hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2025 diễn ra vào giữa tháng 12/2024, ông Nguyễn Thanh Tùng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Vietcombank, cho biết ngân hàng đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu và kế hoạch được Ngân hàng Nhà nước và Đại hội đồng cổ đông giao. Theo tính toán trên cơ sở chỉ tiêu tăng trưởng +5% so với 2023, Vietcombank khả năng đạt lợi nhuận riêng 42.000- 43.000 tỷ đồng. Năm 2024, Vietcombank ước đạt tăng trưởng tín dụng 13,7%, tổng tài sản tăng 12,9% và lần đầu tiên vượt ngưỡng 2 triệu tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu ngân hàng duy trì ở mức thấp 0,97%; tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức cao 223%.

Chỉ ước tính tăng trưởng tín dụng 2 chữ số trong năm 14%, dự báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng còn tốt hơn trong năm tới trên cơ sở chỉ tiêu toàn hệ thống nới rộng, ngân hàng vừa được tăng vốn, thì khả năng Vietcombank thậm chí đạt lợi nhuận cao hơn và nếu không có gì thay đổi, đây sẽ là nhà băng dẫn đầu hành trình vươn tới lãi 2 tỷ đô (USD) nhanh nhất trong hệ thống.

VietinBank (CTG) - Bất ngờ vươn lên thứ 2: Theo BCTC riêng lẻ quý IV/2024, lợi nhuận trước thuế (LNTT) của ngân hàng đạt hơn 30.360 tỷ đồng. Cả năm, lợi nhuận trước thuế hợp nhất đạt 31.758 tỷ đồng. Đến hiện tại, nếu không có gì thay đổi và so sánh theo kết quả các BCTC của hầu hết các NHTM lớn đã công bố, kết quả của VietinBank khẳng định giá trị lợi nhuận đứng thứ hai toàn ngành ngân hàng, vượt qua BIDV được dự đoán giữ vị trí thứ 2 lợi nhuận toàn ngành ngân hàng trước đó.

BIDV (BID) - Lợi nhuận kỷ lục với chính ngân hàng: Ngân hàng này vào ngày 24/1 đã có BCTC riêng lẻ và BCTC hợp nhất giữa niên độ quý IV/2024. Theo báo cáo KQ hoạt động riêng, quý IV/ 2024, BIDV lãi trước thuế hơn 8.954 tỷ đồng; cả năm 2024 lãi riêng lẻ trước thuế hơn 30.006 tỷ đồng. Lãi hợp nhất trước thuế năm 2024 của BIDV đạt hơn 31.383 tỷ đồng. Đây là mức lãi cao nhất trong lịch sử của BIDV.

Tại cuối 2024, tổng tài sản của BIDV đạt hơn 2,7 triệu tỷ đồng. Huy động vốn đạt gần 2 triệu tỷ đồng, cho vay khách hàng đạt hơn 2 triệu tỷ đồng, tăng trưởng 15,3%. Tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng ở mức 1,3% trong khi tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt 133%.

Agribank - Lợi nhuận vượt tỷ đô: Theo công bố sơ bộ, đạt LNTT tăng trên 8%. Trên lợi nhuận trước thuế riêng lẻ Agribank đạt được năm 2023 là 25.525 tỷ đồng, ước tính năm 2024 nhà băng này có thể đạt trên 27.500 tỷ đồng.

Nhiều NHTM lợi nhuận “bứt tốc”

VPBank (VPB) - Phục hồi lợi nhuận, bao gồm FeCredit: VPBank công bố KQKD năm 2024 với LNTT hợp nhất đạt 20,0 nghìn tỷ đồng (+85% YoY). LNTT hợp nhất quý IV/2024 đạt 6,2 nghìn tỷ đồng (+18% QoQ; +143% YoY). Đáng chú ý tăng trưởng tín dụng năm 2024 của ngân hàng mẹ đạt 19,4% (tăng trưởng cho vay đạt 24,1%), thuộc top tăng trưởng tín dụng cao nhất hệ thống. Cho đến năm 2024, số dư trái phiếu doanh nghiệp tại ngân hàng mẹ đã giảm 70% so với năm 2023 và chiếm 1,1% tổng số dư tín dụng. Tỷ lệ nợ xấu hợp nhất quý 4/2024 là 4,20%; Tỷ lệ bao phủ nợ hợp nhất quý 4/2024 là 56,2%. Ngoài ra quý IV/2024, ngân hàng ghi nhận số dư trái phiếu VAMC là 993 tỷ đồng.

FECredit phục hồi và các chỉ số nợ xấu hợp nhất cải thiện tốt hơn, đóng góp lợi nhuận 500 tỷ đồng so với -3.000 tỷ đồng năm 2023, nợ xấu giảm xuống ước 15% (so với 20% năm 2023).

Techcombank (TCB): Tăng trưởng lợi nhuận, nợ xấu thấp: TCB đã công bố KQKD năm 2024 của ngân hàng với LNTT đạt 27,5 nghìn tỷ đồng (+20,3% YoY). Các kết quả trên tương ứng với LNTT quý IV/2024 là 4,7 nghìn tỷ đồng (-34,9% QoQ; +25% YoY). Chất lượng tài sản đã được cải thiện so với cùng kỳ quý trước với tỷ lệ nợ xấu xuống mức 1,17% trong năm 2024. Tỷ lệ bao phủ nợ (LLR) quý IV/2024 của TCB đã cải thiện từ mức 103% trong quý trước lên mức 113%.

Ngân hàng Á Châu (ACB): Tăng trưởng tín dụng vượt bậc với doanh nghiệp lớn: BCTC ACB ghi nhận LNTT đạt 21,0 nghìn tỷ đồng (+4,7% YoY), tăng trưởng tín dụng năm 2024 đạt 19,1% với mức tăng trưởng tín dụng cho bán lẻ, doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và doanh nghiệp lớn lần lượt đạt 14,9%, 12,1% và 86,2%. Tỷ lệ nợ xấu quý IV/2024 của ACB đạt 1,51%.

Ngân hàng Lộc Phát Việt Nam (LPB) - KQKD vừa Lộc vừa Phát: Theo công bố KQKD năm 2024, LPB LNTT đạt 12,2 nghìn tỷ đồng (+72,6% YoY), tăng trưởng tín dụng năm 2024 đạt 20,4%, là một trong những ngân hàng đạt tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ kể từ đầu năm 2024. Chất lượng tài sản được cải thiện so với quý trước, với tỷ lệ nợ xấu giảm 23 điểm cơ bản xuống 1,57% trong quý IV/2024. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) quý IV/2024 của LPB đã được cải thiện lên 83% từ mức 78% trong quý trước.

Ngân hàng Quốc tế (VIB) - Tín dụng tăng tốc nửa cuối năm: VIB công bố LNTT năm 2024 đạt hơn 9.000 tỷ đồng, giảm 16% so với cùng kỳ, đây là con số lợi nhuận thực chất, phản ánh đúng kết quả kinh doanh và tình hình thị trường. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) đạt khoảng 18%. Phần lớn thu nhập lãi của VIB đi cùng tăng trưởng tín dụng tăng mạnh nửa cuối năm.

Tại ngày 31/12/2024, tổng tài sản VIB đạt hơn 493.000 tỷ đồng, tăng 20% so với đầu năm. Dư nợ tín dụng VIB đạt 325.000 tỷ đồng, tăng trưởng gần 22%. Trong đó, dư nợ bán lẻ đạt gần 260.000 tỷ đồng, tỷ lệ bán lẻ duy trì mức 80%, cao nhất ngành. Tỷ lệ nợ xấu giảm, đạt 3,51% trong quý IV/2024; tỷ lệ bao phủ nợ (LLR) của VIB đạt 50,1% trong quý 4/2024, tăng 2,91 điểm phần trăm QoQ.

Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB ) - Giữ vững hiệu quả sinh lời top đầu: Theo báo cáo, LNTT lũy kế cả năm của SHB là 11.543 tỷ đồng, tăng 25% so với năm 2023 và vượt kế hoạch Đại hội đồng cổ đông thông qua. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) đạt 21,4%, duy trì hiệu quả sinh lời nhóm đầu ngành. Tính đến 31/12/2024, tổng tài sản ở mức hơn 747.000 tỷ đồng, tăng 18,5% so với cuối năm trước. Dư nợ cấp tín dụng ở mức gần 534.000 tỷ đồng, tỷ lệ tăng trưởng cấp tín dụng 18,2%. Tỷ lệ an toàn vốn CAR ở mức trên 12% theo tiêu chuẩn Basel II.

Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (STB) - Cạnh tranh tín dụng: Theo công bố KQKD, STB đạt LNTT 12,7 nghìn tỷ đồng (+32,6% YoY), trong đó LNTT quý IV/2024 đã tăng 64% do việc hoàn nhập chi phí dự phòng trong quý IV/2024. Tăng trưởng tín dụng năm 2024 đạt 11,7%, thấp hơn so với mức tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống là 15% và hạn mức tín dụng năm 2024 của STB là khoảng 13%. Tỷ lệ nợ xấu là 2,40%.

Từ năm 2016-2022, lợi nhuận của ngành ngân hàng theo thống kê luôn tăng trưởng hai con số, chiếm hơn 35% giá trị vốn hóa và 60% tổng lợi nhuận của VN-Index.
Năm 2024, ngành ngân hàng chiếm gần 40% giấ trị vốn sàn HoSE, chiếm tỷ trọng lớn trong rổ VN30 và cùng với bất động sản, chiếm khoảng 70% lợi nhuận toàn thị trường.

Ngân hàng Phương Đông (OCB) - Tăng tốc ngoạn mục quý IV: Kết quả kinh doanh quý IV/2024 của OCB ghi nhận lợi nhuận trước thuế đạt 1.453 tỷ đồng, tăng 10,7% so với cùng kỳ. Luỹ kế cả năm, lợi nhuận trước thuế đạt 4.006 tỷ đồng giảm 3,2% so với cùng kỳ.

Tính đến 31/12/2024, tổng tài sản của OCB đạt 280.712 tỷ đồng tăng 16,9% so với năm 2023. OCB ghi nhận tốc độ tăng trưởng tín dụng thị trường 1 đạt gần 20%, cao hơn trung bình ngành (15,08%). Huy động thị trường 1 đạt 192.413 tỷ đồng, tăng 14,5% so với đầu năm. Hoạt động kinh doanh cốt lõi tăng trưởng tốt, với tín dụng tăng trưởng gần 20% và NIM cải thiện ở mức 3,5% vào cuối năm 2024.

OCB cũng cho biết tỷ lệ giao dịch qua kênh số hiện ở mức 96,2%, mức khá cao so với các ngân hàng trên toàn hệ thống. Đơn cử, chỉ sau 7 tháng ra mắt ngân hàng số OCB OMNI phiên bản mới, số lượng giao dịch trên kênh này đã tăng 74%, CASA tăng 21% và doanh thu tiền gửi tiết kiệm trực tuyến tăng 32% so với cùng kỳ năm 2023; ngoài ra có đóng góp ấn tượng từ Liobank.

VietABank (VAB) - Tăng dư nợ, giảm lợi nhuận: KQKD của VietABank ghi nhận lợi nhuận trước thuế quý IV ở mức 291 tỷ đồng, giảm 10,2% so với cùng kỳ. Luỹ kế cả năm, lợi nhuận VietABank là 1.085 tỷ đồng, tăng 18,3%.

Tính đến cuối tháng 12, tổng tài sản của VietABank ở mức 119.832 tỷ đồng, tăng 6,8% so với đầu năm. Dư nợ cho vay ở mức 79.916 tỷ đồng, tăng 33,1%. Tiền gửi khách hàng đạt 90.289 tỷ đồng, tăng 4,1%. Tại cuối quý IV/2024, số dư nợ xấu của ngân hàng là 1.046 tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ 1,31%.

KienlongBank (KLB) -Lợi nhuận đột biến: LNTT quý IV ở mức 352 tỷ đồng, tăng 342,5% so với cùng kỳ. Lũy kế cả năm, lợi nhuận của ngân hàng ở mức 1.112 tỷ đồng, tăng trưởng 54,7%.

Trong quý IV, thu nhập lãi thuần của KienlongBank đạt 793,7 tỷ đồng, tăng 46,3% so với cùng kỳ. Bên cạnh đó, các hoạt động ngoài lãi ghi nhận kết quả tích cực.

Đến cuối quý IV, tổng tài sản KienlongBank ở mức 91.176 tỷ đồng, tăng 4,8% so với đầu năm. Trong đó, dư nợ cho vay khách hàng đạt 61.432 tỷ đồng, tăng 18,6%. Tiền gửi đạt 63.521 tỷ đồng, tăng 11,6%. Số dư nợ xấu ở mức 1.172 tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ 1,91%.

TienPhong Bank (TPB) - Tiền gửi chậm hơn tín dụng: Theo công bố KQKD năm 2024, TPB đạt LNTT 7,6 nghìn tỷ đồng (+36,0% YoY). Trong đó riêng quý IV, so với quý trước, LNTT đạt 2,1 nghìn tỷ đồng (+23,5% QoQ). Tăng trưởng tín dụng năm 2024 đạt 20,2%. Tiền gửi năm 2024 của TPB tăng 16,6%, chậm hơn so với tăng trưởng tín dụng. Tỷ lệ nợ xấu đạt 1,52%, tỷ lệ bao phủ nợ (LLR) 81,3%.

Eximbank (EIB) - Vượt mọi sóng gió, tăng trưởng lợi nhuận cao: EIB ghi nhận lợi nhuận trước thuế đạt 4.188 tỷ đồng, tăng 54% so với năm 2023. Trong đó, lãi thuần từ hoạt động dịch vụ tăng 110,1% so với năm 2023, đạt 1.080 tỷ đồng; lãi từ hoạt động kinh doanh ngoại hối tăng 38,7%, đạt 674 tỷ đồng.

Tính đến ngày 31/12/2024, tổng tài sản đạt 239.532 tỷ đồng, tăng trưởng 18,9%; trong đó dư nợ cấp tín dụng tăng 19,72%. Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn sử dụng để cho vay trung dài hạn duy trì quanh mức 24% - 25%; tỷ lệ LDR duy trì quanh mức 82% - 84%; tỷ lệ an toàn vốn CAR dao động quanh ngưỡng 12% - 13%.

BVBank (BV) - Tốc độ tăng lợi nhuận cao nhất ngành: Kết thúc năm 2024, BVBank ghi nhận hơn 390 tỷ đồng lợi nhuận, hoàn thành 112% kế hoạch đặt ra và cao gấp 5,4 lần con số đạt được của năm 2023. Trong đó, riêng lợi nhuận quý 4 đạt 209 tỷ đồng, chủ yếu đến từ việc tăng mạnh hoạt động cho vay (đóng góp gần 40% mức tăng cả năm), tốc độ thu nợ đẩy nhanh với mức thu gần 3 lần bình quân các quý trước, cải thiện mạnh thu lãi và giảm chi phí dự phòng.

Với kết quả đạt được, BVBank hiện là ngân hàng có tốc độ tăng lợi nhuận cao nhất ngành ngân hàng năm 2024.

tại 31/12/2024, tổng tài sản của BVBank đạt 103.500 tỷ đồng, tăng trưởng 18% so với năm 2023. dư nợ cho vay khách hàng đạt hơn 68.000 tỷ đồng, tăng khoảng 18% so với cuối năm năm 2023. Tỷ lệ nợ xấu 2,59% .

MSB - Động lực từ khách hàng chiến lược: Theo KQKD của MSB, kết thúc năm 2024, MSB ghi nhận lợi nhuận trước thuế đạt trên 6.903 tỷ đồng, tăng 18,42% so với năm 2023, hoàn thành kế hoạch cam kết với cổ đông.

Dư nợ tín dụng ngân hàng hợp nhất đạt hơn 178.280 tỷ đồng; tăng trưởng tín dụng của riêng ngân hàng mẹ là 18,25%, cao hơn mức trung bình 15,08% toàn ngành, với sự đóng góp lớn từ các phân khúc chiến lược như khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME). MSB cho biết Tăng trưởng tín dụng cũng là động lực thúc đẩy chính trong tăng trưởng tổng tài sản MSB khi chỉ số này ghi nhận giá trị gần 320.200 tỷ đồng tại 31/12/2024, tăng xấp xỉ 20% so với cuối năm 2023.

PGBank (PGB) - Năm lãi sau M&A: Theo công bố quý IV/2024, PGB ghi lợi nhuận trước thuế 76 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm ngoái lỗ 4,6 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế quý đạt 61 tỷ đồng. Lũy kế cả năm, PGBank ghi nhận lợi nhuận trước thuế đạt 421 tỷ đồng, tăng 19,8%; lợi nhuận sau thuế là 337 tỷ đồng, tăng 20,3% so với cùng kỳ năm 2023.

SeABank (SSB) -Tích cực CASA: SSB công bố LNTT đạt 6.039 tỷ đồng, tăng 31% so với năm 2023, hoàn thành 103% kế hoạch. Quy mô tổng tài sản của ngân hàng đạt 325.699 tỷ đồng, tăng 22% trong đó dư nợ tín dụng đạt 209.355 tỷ đồng, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng đạt 20,42%. Tổng huy động đạt 215.984 tỷ đồng, tăng trưởng 23%, Trong đó tiền gửi không kỳ hạn (CASA) đạt 32.658 tỷ đồng, tăng 96% so với năm 2023 và chiếm 19,4% tổng huy động. Tỷ lệ nợ xấu ở mức 1,89%.

Nam A Bank (NAB): Ngân hàng công bố LNTT năm 2024 đạt hơn 4.545 tỷ đồng, tăng 37,56% so với cùng kỳ năm 2023, vượt 13,6% chỉ tiêu được giao.

Tính đến hết năm 2024 tổng tài sản Nam A Bank đạt hơn 245.000 tỷ đồng, tăng gần 16,8% so với cùng kỳ năm 2023. Hoạt động tín dụng của Nam A Bank đạt gần 168.000 tỷ đồng, tăng 18,34% so với đầu năm; huy động vốn đạt gần 179.000 tỷ đồng, tăng hơn 9% so với cùng kỳ năm 2023.

ABBank (ABB) - Tăng trưởng quy mô hoạt động: ABB ghi nhận LNTT quý IV tăng 58% so với năm 2023, đạt 809 tỷ đồng, tương đương hoàn thành 81% kế hoạch năm. Tính đến hết ngày 31/12/2024, quy mô hoạt động của ABBank tiếp tục tăng trưởng thông qua ghi nhận từ các chỉ số bao gồm tổng tài sản đạt 176.628 tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2023, đạt 104% kế hoạch năm.

Ngân hàng Quốc Dân (NCB) - Vượt nhiều chỉ tiêu: Theo công bố, NCB đã hoàn thành vượt mức mục tiêu đặt ra tại Đại hội đồng cổ đông thường niên tổ chức hồi tháng 4/2024. Trong đó, tổng tài sản đạt 118.562 tỷ đồng, tăng 23,2% so với 2023 và vượt 12% so với kế hoạch. Tổng dư nợ cho vay khách hàng đạt 71.175 tỷ đồng, tổng huy động vốn thị trường 1 đạt 100.491 tỷ đồng, vượt lần lượt 10,6% và 16,8% so với kế hoạch.

Tính tới thời điểm 31/12/2024, NCB đạt quy mô khách hàng hơn 1,346 triệu khách, bằng 117,05% so với kế hoạch cả năm và tăng trưởng 34,6% so với cuối 2023. NCB hiện đang triển khai bước tiếp theo của lộ trình tại phương án cơ cấu lại đã được NHNN thông qua là thực hiện trích lập dự phòng, thoái lãi dự thu và chi phí vốn của các khoản tồn tại cũ và đã được NHNN chấp thuận sửa đổi nội dung vốn điều lệ tại Giấy phép thành lập và hoạt động, tăng từ hơn 5.600 tỷ đồng lên gần 11.800 tỷ đồng, sau khi phát hành thành công hơn 617 triệu cổ phiếu trong đợt chào bán cho các nhà đầu tư trong nước.

Các chỉ số an toàn hoạt động của NCB tiếp tục duy trì và đảm bảo giới hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Tính đến ngày 31/12/2024, tỷ lệ dự trữ thanh khoản đạt 17,27%, cho thấy Ngân hàng đang duy trì một “bộ đệm thanh khoản” có khả năng chống chịu tốt trước những biến động trên thị trường.

BaoViet Bank- Lợi nhuận giảm: Đây là nhà băng đầu tiên cho biết có LNTT năm 2024 giảm so với năm trước, đạt gần 86 tỷ đồng, thấp hơn so với mức 90 tỷ đồng trong năm 2023.Tính đến 31/12/2024, tổng tài sản của BaoViet Bank đạt hơn 90.600 tỷ đồng, tăng 7,06% so với cuối năm trước, trong đó tổng dư nợ tín dụng đạt gần 54.600 tỷ đồng.

Saigonbank (SGB): Ngân hàng ghi nhận khoản lỗ 113 tỷ đồng trong quý 4/2024, trong khi cùng kỳ có lãi 84 tỷ đồng. Lũy kế LNTT cả năm 2024 của Saigonbank đạt 99 tỷ đồng, giảm tới 70% so với cùng kỳ và không hoàn thành kế hoạch. Tại thời điểm 31/12/2024, Saigonbank có tổng tài sản trên 33.260 tỷ đồng, tăng xấp xỉ 5,6% so với cuối năm 2023. Huy động vốn khách hàng đạt hơn 24.413 tỷ đồng trong khi dư nợ cho vay khách hàng ở mức 21.624 tỷ đồng, tăng lần lượt 7,5% và 10% so với cuối năm trước.

HDBank (HDB) -Tiếp đà tăng lãi cao top đầu hệ thống: HDBank tối 24/1 đã công bố KQKD với các chỉ số hiệu quả bứt phá đầu ngành. Theo công bố, năm 2024, HDBank đạt 16.731 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, tăng 28,5% so với năm 2023 và hoàn thành 106% kế hoạch cổ đông giao. ROA đạt 2,04% và ROE đạt 25,71%, đều cao hơn cùng kỳ năm trước và duy trì trong nhóm ngân hàng dẫn đầu toàn ngành. Tỷ lệ nợ xấu hợp nhất (theo Thông tư 11) thấp chỉ 1,48%. Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) theo chuẩn Basel II ở mức 14,1%, cao hơn quy định của Ngân hàng Nhà nước. Các chỉ tiêu an toàn hoạt động khác được đảm bảo.

Ở mảng tài chính tiêu dùng, công ty con HD SAISON tiếp tục khẳng định vị thế dẫn đầu thị trường về lợi nhuận, đạt 1.200 tỷ đồng, tăng mạnh 83,9% so với năm 2023. Kết quả này một lần nữa cho thấy chiến lược phát triển bền vững, năng lực duy trì tăng trưởng cao, quản trị rủi ro hiệu quả.

Tổng tài sản HDBank đạt 697.281 tỷ đồng, tăng 15,8% so với năm 2023. Huy động vốn vượt 621 nghìn tỷ đồng, tăng 15,7%, trong đó tiền gửi từ tổ chức kinh tế và dân cư tăng 18%. Tổng dư nợ đạt trên 437 nghìn tỷ đồng, tăng 23,9%, hướng tới những ngành là động lực tăng trưởng kinh tế như nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp SME, tài trợ chuỗi… Nợ xấu tại cuối 2024 tiếp tục giữ mức thấp.

MBBank (MB) - Ước tính lợi nhuận cao dẫn đầu nhóm NHTM: tương tự HDBank, tính đến 25/1, MB cũng chưa công bố BCTC tài chính quý IV. Trước đó, Tổng Giám đốc MB chia sẻ tại Hội nghị Nhà đầu tư, ước tính LNTT riêng lẻ ngân hàng năm 2024 tăng khoảng 12% so với năm 2023 và đạt 27.600 tỷ đồng. Lợi nhuận trước thuế hợp nhất tăng khoảng 9-10%, đạt gần 29.000 tỷ đồng. Nếu theo số liệu này, MB vượt qua Techcombank để dẫn đầu lợi nhuận của nhóm NHTMCP, và chỉ về sau lợi nhuận của Vietcombank, VietinBank, BIDV.

Lê Mỹ