Chuyên đề

Đổi mới chính sách thuế, tăng cạnh tranh thu hút vốn đầu tư

PGS.TS Diệp Gia Luật & Cộng sự, Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh* 03/03/2025 04:01

Trong bối cảnh mới, chính sách ưu đãi thuế truyền thống có thể bị hạn chế, dẫn đến nguy cơ mất lợi thế cạnh tranh. Song đây cũng là cơ hội để Việt Nam cải cách chính sách thuế

Để duy trì và gia tăng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nhiều quốc gia đang phát triển đã áp dụng các chính sách ưu đãi thuế hấp dẫn nhằm thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư. Các ưu đãi thuế này thường được thiết kế để cung cấp những lợi ích tài chính đáng kể, như giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu, khấu hao nhanh tài sản cố định, miễn lãi suất, và giảm các loại phí liên quan.

Thuế suất hiệu dụng và tác động hút vốn đầu tư

Tại các quốc gia Đông Nam Á, tác động của thuế suất hiệu dụng (ETR) đối với thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thể hiện qua 1 số khía cạnh:

FDI 1
Các chiến lược chuyển lợi nhuận quá mức của các tập đoàn đa quốc gia MNE gây ra xói mòn cơ sơ thuế (BEPS), làm tổn thất ngân sách của nhiều quốc gia trên thế giới. Vì vậy, quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu ra đời và triển khai như một nỗ lực đáng kể hạn chế hiện tượng này. Ảnh minh họa

Thu nhập bình quân đầu người có tác động tích cực và có ý nghĩa đến dòng vốn FDI. Điều này khẳng định rằng các quốc gia có mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn sẽ thu hút được nhiều FDI hơn, do mức thu nhập này phản ánh sức mua, chất lượng lao động, và thị trường tiêu thụ tiềm năng.

Ổn định chính trị có tác động mạnh mẽ và tích cực đến FDI. Các nhà đầu tư thường ưu tiên các quốc gia có môi trường chính trị ổn định để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh dài hạn. Kết quả này củng cố quan điểm rằng chính trị ổn định là một nhân tố vĩ mô quan trọng trong việc tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn.

Dân số gia tăng có tác động nghịch chiều với khả năng thu hút FDI. Kết quả này cho thấy, ở các quốc gia Đông Nam Á, bùng nổ dân số có thể dẫn đến gánh nặng kinh tế, làm giảm sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này đặc biệt đúng trong bối cảnh các nước này đang đối mặt với thách thức trong việc cung cấp việc làm, cơ sở hạ tầng, và dịch vụ xã hội phù hợp.

Đáng chú ý, kết quả kiểm định cho thấy mối quan hệ nghịch chiều có ý nghĩa giữa thuế suất thực tế và dòng vốn FDI. Cụ thể, khi thuế suất hiệu dụng tăng, dòng vốn FDI giảm. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của chính sách thuế trong việc duy trì sức cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài. Ở đây, thuế suất hiệu dụng (Effective Tax Rate - ETR) là tỷ lệ thực tế mà doanh nghiệp phải trả trên thu nhập chịu thuế của mình, phản ánh gánh nặng thuế thực sự sau khi áp dụng các quy định và ưu đãi thuế. Khi thuế suất hiệu dụng tăng, dòng vốn đầu tư FDI có xu hướng giảm, và điều này có thể được giải thích như sau:

Thứ nhất, khi thuế suất hiệu dụng tăng, doanh nghiệp phải dành một phần lớn hơn thu nhập của mình để đóng thuế, làm giảm lợi nhuận thực tế. Điều này khiến quốc gia có mức thuế suất cao trở nên kém hấp dẫn hơn so với các quốc gia có thuế suất thấp, nơi doanh nghiệp có thể tối ưu hóa lợi nhuận. Nhà đầu tư nước ngoài sẽ ưu tiên chọn quốc gia có chi phí vận hành thấp hơn và khả năng tối ưu hóa lợi nhuận cao hơn. Do đó, tăng ETR dẫn đến dòng vốn FDI dịch chuyển sang các quốc gia khác với mức thuế cạnh tranh hơn.

Thứ hai, mức thuế hiệu dụng cao không chỉ ảnh hưởng đến lợi nhuận mà còn gia tăng cảm nhận về rủi ro đầu tư. Một môi trường thuế cao thường đi kèm với khả năng chính sách tài khóa thay đổi bất lợi trong tương lai, khiến các nhà đầu tư lo ngại về tính ổn định và dự đoán của hệ thống pháp lý.

Thứ ba, ở khía cạnh đầu vào, thuế suất hiệu dụng cao làm tăng chi phí sản xuất và dịch vụ, dẫn đến giá thành sản phẩm tăng. Điều này có thể khiến doanh nghiệp FDI (và các doanh nghiệp trong nước) khó cạnh tranh trên thị trường.

Ngoài ra, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh khu vực, nhà đầu tư ngày càng nhạy cảm với sự chênh lệch về chính sách thuế giữa các quốc gia. Việc tăng thuế suất hiệu dụng ở một quốc gia có thể tạo tâm lý tiêu cực, khiến dòng vốn FDI chuyển sang các nước có chính sách thuế linh hoạt hơn.

Năm 2024, quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu được thực hiện hóa. Sự ra đời và áp dụng quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu nhìn chung đang đặt ra những cơ hội lẫn thách thức to lớn đối với nhiều quốc gia đang phát triển.

Điểm đáng chú ý là thuế suất hiệu dụng tại nhiều quốc gia đang phát triển hiện nay thường thấp hơn nhiều so với mức thuế suất tối thiểu toàn cầu là 15%. Điều này làm dấy lên lo ngại về tác động của quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu đến quyết định đầu tư và hoạt động của các tập đoàn đa quốc gia . Vì vậy, việc áp dụng quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu đòi hỏi các quốc gia phải xem xét cẩn trọng nhằm cân bằng giữa các bên lợi ích có liên quan.

Quy tắc thuế GMT và hướng thay đổi chính sách ưu đãi thuế

Trong những năm qua, Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu nổi bật trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, khẳng định vị thế của mình như một điểm đến hấp dẫn trong khu vực Đông Nam Á và trên toàn cầu.

Việt Nam cũng đã và đang xây dựng chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư (HTĐT) chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư này không chỉ về thuế, đảm bảo sự minh bạch và hiệu quả trong việc thu hút dòng vốn đầu tư, đặc biệt là vốn FDI. Các quy định này đặt ra các nguyên tắc, mức ưu đãi cụ thể và hình thức hỗ trợ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, đồng thời góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.

thay-doi-thue-thu-nhap-doanh-nghiep-fdi-.jpg
Thay đổi chính sách thuế doanh nghiệp FDI những năm qua. Từ 2024, khi áp dụng thuế theo quy tắc GMT, đồng nghĩa nếu chính sách ưu đãi thuế khiến cho thuế suất hiệu dụng của các công ty con này dưới 15% thì các nước đầu tư sẽ có quyền thu phần thuế thiếu này. Do đó, dẫn đến nguy cơ các doanh nghiệp rút vốn khỏi Việt Nam và được khuyến nghị cần thiết phải thực thi nghiêm túc quy tắc này.

Các mức ưu đãi đầu tư được áp dụng theo quy định cụ thể của pháp luật về thuế, kế toán, và đất đai, nhằm đảm bảo tính công bằng và phù hợp với từng loại hình đầu tư, khu vực đầu tư, và lĩnh vực ưu tiên. Một số hình thức chính sách ưu đãi nổi bật đang có như Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) - nhà đầu tư nước ngoài FDI thường được hưởng mức thuế suất thấp hơn so với mức thuế suất pháp lý thông thường (20%) trong một khoảng thời gian hoặc thậm chí trong toàn bộ thời gian thực hiện dự án đầu tư nếu thỏa mãn về quy mô vốn, quy mô lao động và sử dụng công nghệ cao theo quy định. Ngoài ra, các nhà đầu tư còn được miễn thuế hoặc giảm thuế trong một số năm đầu tiên của dự án hoặc trong suốt vòng đời dự án. Tương tự, các ưu đãi thuế dạng này thường tập trung vào doanh nghiệp công nghệ cao và quy mô vốn lớn. Bên cạnh đó là các ưu đãi thuế khác.

Năm 2023, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Nghị quyết 107/2023/QH15 về việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu (hay còn gọi là thuế tối thiểu toàn cầu) vào ngày 29/11/2023. Quy định này có hiệu lực từ năm 2024.

Ở một phương diện khác, quy tắc GMT không phải là điều ước quốc tế, không phải là cam kết quốc tế, không bắt buộc các quốc gia phải áp dụng. Tuy nhiên, nếu Việt Nam không áp dụng thì vẫn phải chấp nhận việc các quốc gia khác áp dụng. Đây là hiệp định đa phương nhằm giúp các quốc gia thu hẹp lỗ hổng quản lý thuế quốc tế, ngăn chặn tình trạng lợi nhuận của các công ty đa quốc gia được chuyển đến những vùng lãnh thổ có thuế suất thấp, miễn thuế, trong khi thực tế những nơi này có ít hoặc không có các hoạt động kinh tế thực chất.

Theo đó, cơ hội cho Việt Nam xu hướng mới, bao gồm có các lợi thế chính thu hút đầu tư nước ngoài FDI; đi cùng là việc áp dụng quy tắc GMT tạo động lực hoàn thiện chính sách, thu hẹp khoảng cách với thông lệ quốc tế, thúc đẩy hội nhập, giảm thiểu trốn thuế, chuyển giá, và nâng cao môi trường đầu tư kinh doanh. Tuy nhiên, thách thức là Việt Nam hiện có 1.015 doanh nghiệp FDI thuộc đối tượng điều chỉnh của quy tắc GMT, trong đó hơn 70 doanh nghiệp có thể bị ảnh hưởng từ năm 2024 (theo GSO). Khoảng 335 dự án FDI, chủ yếu trong ngành chế biến chế tạo, đang hưởng thuế suất dưới 15%, thấp hơn thuế suất tối thiểu toàn cầu. Thuế TNDN phổ thông của Việt Nam là 20%, nhưng ưu đãi cho DN FDI chỉ còn 12,3%, thậm chí 10% cho cả đời dự án. Khi áp dụng thuế GMT, nhà đầu tư phải nộp thêm phần chênh lệch thuế tại quốc gia mẹ hoặc Việt Nam, làm giảm hiệu quả của các ưu đãi thuế, ảnh hưởng đến tính cạnh tranh môi trường đầu tư.

Với bối cảnh áp dụng quy tắc GMT đem lại cả cơ hội và thách thức, Chính phủ cần thay đổi chính sách ưu đãi thuế phù hợp và kịp thời cũng như tập trung vào các yếu tố bền vững hơn như tăng trưởng kinh tế, quy mô và chất lượng dân số, cũng như sự ổn định chính trị.

Trong tương lai gần, Chính phủ cần có những văn bản hướng dẫn thi hành chi tiết về thuế suất tối thiểu toàn cầu. Việc ban hành hoặc điều chỉnh các hướng dẫn chính sách thuế và kế toán cần được thực hiện sớm, đặc biệt trong bối cảnh lộ trình áp dụng tự nguyện (2022- 2025) “Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS)” theo Quyết định số 345/QĐ-BTC ngày 16/03/2020 của Bộ Tài chính, nhằm hướng dẫn người nộp thuế thi hành, đảm bảo phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và các cam kết đã được ký kết. Điều này cũng nhằm tránh thất thoát thuế do mất quyền thu thuế và đảm bảo sự cân đối “lợi ích của Nhà nước” và các “nhà đầu tư”.

Đồng thời, Chính phủ cần khuyến khích các nhà đầu tư mở rộng hoạt động đầu tư và tiếp tục thu hút các dự án đầu tư mới phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn mới thông qua việc cải thiện các yếu tố như thu hút nhiều lao động, nâng cao năng suất lao động từ các dự án, kìm hãm gia tăng dân số, phục vụ cho phát triển kinh tế và góp phần duy trì ổn định chính trị.

Ngoài ra, Chính phủ cần đẩy nhanh tiến trình nghiên cứu các chính sách và giải pháp cho việc thực thi quy tắc GMT để không bị đánh mất quyền thu thuế, đồng thời bảo đảm hài hoà lợi ích giữa Nhà nước và nhà đầu tư.

Về lâu dài, Chính phủ cần rà soát và thay đổi chính sách thu hút FDI từ hướng ưu đãi về thuế sang hướng tập trung vào nâng cao năng lực cạnh tranh; Cần xác định các nhà đầu tư chiến lược là các nhà đầu tư lớn, có hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), công nghệ cao, thân thiện với môi trường, lĩnh vực năng lượng tái tạo.., là các doanh nghiệp đạt tầm khu vực hoặc thế giới; các chính sách hỗ trợ đầu tư cần bảo đảm nguyên tắc công bằng, hướng tới tất cả các doanh nghiệp đạt được các tiêu chí cụ thể mà chính sách hướng đến, không phân biệt đó là doanh nghiệp thuộc đối tượng phải chịu thuế bổ sung hay không và thực hiện đồng bộ với hoàn thiện hệ thống thuế suất và ưu đãi thuế;

Bên cạnh các ưu đãi thuế, việc thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư có ý nghĩa khuyến khích, thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia phải đi đôi với việc hỗ trợ các doanh nghiệp trong một số lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư.

* Nhóm tác giả: PGS.TS. Diệp Gia Luật, TS. Trần Trung Kiên, TS. Trần Ngọc Linh, ThS. Phạm Thị Ngọc Dung - Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

PGS.TS Diệp Gia Luật & Cộng sự, Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh*